NGÀY TỰ DO BÁO CHÍ THẾ GIỚI 2012
Hôm nay, 3/5, là ngày Tự do Báo chí Thế giới (World Press Freedom Day). Chủ đề năm nay là "Những tiếng nói mới: Tự do Truyền thông Giúp Cải cách các Xã hội". Nhân dịp này, Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon và Tổng thư ký UNESCO Irina Bokova đã có một thông điệp chung về vai trò của truyền thông đối với nhân loại.


Trong thông điệp này, hai vị lãnh đạo của Liên hợp quốc tái khẳng định vị trí thiết yếu của một trong những quyền đáng quý nhất của con người - Tự do biểu đạt (Freedom of expression). Vì quyền này củng cố các quyền tự do khác và tạo thành nền tảng nâng đỡ phẩm giá con người. Để tạo điều kiện cho sự hiện diện của tự do ngôn luận thì một nền truyền thông (media) tự do, đa dạng và độc lập có vai trò thiết yếu.

Thông điệp cũng đề cập đến những hiểm nguy mà các phóng viên đang phải đối mặt. Nhận định về khuynh hướng truyền thông ngày càng chuyển qua mạng lưới internet (moves online) và ngày càng nhiều phóng viên mạng, bloggers bị sách nhiễu, tấn công vì công việc của mình, thông điệp kêu gọi bảo vệ những người viết này tương tự như các người làm truyền thông truyền thống (traditional media workers).

Các bạn có thể đọc toàn văn thông điệp này tại trang tin của UNESCO:
http://unesdoc.unesco.org/ulis/cgi-bin/ulis.pl?catno=216003

Hình ảnh trên đây, của tổ chức Liên minh truyền thông thế giới nhân ngày WPFD năm nay, nói về mối quan hệ giữa dân chủ với báo chí tự do.

* Về tự do ngôn luận và biểu đạt, gần đây, Ủy ban Nhân quyền - cơ quan giám sát thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR - 1966, mà Việt Nam là thành viên từ năm 1982) đã ban hành một Bình luận chung (Số 34).

Ở đây, chúng tôi trân trọng giới thiệu bản dịch Bình luận chung này, giải thích cho Điều 19 của ICCPR, của bạn K.Hoa (HN):

Ủy ban Nhân quyền

Phiên 102

Geneva, 11-29/07/2011

Bình luận chung số 34

Điều 19: Tự do quan điểm và biểu đạt

Nhận xét chung

1.   Bình luận chung này thay thế Bình luận chung số 10 (phiên thứ mười chín).

2.   Tự do quan điểm và tự do biểu đạt là những điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển đầy đủ của một con người. Bất kỳ xã hội nào cũng cần có tự do quan điểm và tự do biểu đạt.[1] Hai quyền này tạo nền móng cho mọi xã hội tự do và dân chủ. Hai quyền tự do này có liên quan chặt chẽ, trong đó tự do biểu đạt là động cơ cho việc trao đổi và phát triển các quan điểm.

3.   Tự do biểu đạt là điều kiện cần cho việc hiện thực hóa các nguyên tắc minh bạch và giải trình, từ đó, vì thế mà cần thiết cho việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.

4.   Trong số các điều khoản bao hàm việc đảm bảo tự do quan điểm và tự do biểu đạt, có các điều 18, 17, 25 và 27. Tự do quan điểm và tự do biểu đạt tạo lập nền tảng cho việc thụ hưởng một cách đầy đủ nhiều quyền con người khác. Ví dụ, tự do biểu đạt là thành tố của việc thụ hưởng các quyền tự do hội họp và tự do lập hội, và thực hành quyền bầu cử.

5.   Cân nhắc đến những khái niệm cụ thể của điều 19 đoạn 1 cũng như mối quan hệ giữa quan điểm và suy nghĩ (điều 18), việc bảo lưu đoạn 1 là không phù hợp với đối tượng và mục đích của Công ước.[2] Thêm nữa, mặc dù tự do quan điểm không được nêu ra trong số các quyền không thể thoái bộ như trong điều 4 của Công ước, cần nhắc lại rằng, “trong những điều khoản của Công ước không được nhắc đến trong điều 4 đoạn 2, có những yếu tố mà theo quan điểm của Ủy ban là không thể là chủ thể của việc thoái bộ hợp pháp dưới điều 4”.[3] Tự do quan điểm là một yếu tố như vây, vì không bao giờ cần phải thoái bộ tự do quan điểm ngay cả trong một điều kiện khẩn cấp.[4]

6.   Cân nhắc đến mối quan hệ giữa tự do biểu đạt và các quyền khác trong Công ước, trong khi việc bảo lưu với từng yếu tố của điều 19 đoạn 2 có thể được chấp nhận, việc bao lưu chung với các quyền đưa ra trong đoạn 2 sẽ là không phù hợp với đối tượng và mục đích của Công ước.[5]

7.   Nghĩa vụ tôn trọng tự do quan điểm và tự do biểu đạt là nghĩa vụ bắt buộc và toàn diện đối với mọi Nhà nước thành viên. Tất cả mọi nhánh của Nhà nước (hành pháp, lập pháp và tư pháp) và các cơ quan công quyền và tổ chức của chính phủ, dù ở cấp độ nào – quốc gia, khu vực hay địa phương – đều có nghĩa vụ của Nhà nước thành viên.[6] Nghĩa vụ này cũng có thể phát sinh với một Nhà nước thành viên trong một số trường hợp nhất định có tư cách bán-quốc doanh.[7] Nghĩa vụ này cũng yêu cầu các Nhà nước thành viên phải đảm bảo rằng mọi người được bảo vệ khỏi bất kỳ hành vi nào của cá nhân hay pháp nhân thuộc khu vực tư có thể ảnh hưởng xấu đến việc thụ hưởng các quyền tự do quan điểm và tự do biểu đạt đến mức độ những quyền theo Công ước này phải biến đổi theo việc áp dụng của giữa cá nhân hoặc pháp nhân thuộc khu vực tư.[8]

8.   Các nhà nước thành viên phải đảm bảo rằng các quyền trong điều 19 của Công ước có hiệu lực trong hệ thống nội luật của Nước thành viên, và có tinh thần nhất quán với những chỉ dẫn của Ủy ban trong Bình luận chung số 31 về bản chất của các nghĩa vụ pháp lý chung đối với Nước thành viên Công ước. Nhắc lại rằng các Nhà nước thành viên phải cung cấp cho Ủy ban, trong các báo cáo theo điều 49, những quy tắc trong nội luật, các thủ tục hành chính và quyết định tư pháp, cũng như các chính sách liên quan và các thực hành theo các ngành khác nhau liên quan đến các quyền được bảo vệ theo điều 19, bao gồm các vấn đề được thảo luận trong bình luận chung này. Nội dung báo cáo cũng phải có thông tin về các biện pháp khắc phục sẵn có nếu những quyền này bị vi phạm.

                   Tự do quan điểm

9.   Đoạn 1 điều 19 yêu cầu bảo vệ quyền giữ quan điểm mà không bị can thiệp. Đây là một quyền mà Công ước không cho phép có ngoại lệ hay hạn chế. Tự do quan điểm còn bao gồm quyền của một người được tự do lựa chọn thay đổi quan điểm bất cứ khi nào và vì bất cứ lý do gì. Không ai có thể bị hạn chế bất kỳ quyền nào trong Công ước do quan điểm của mình, dù đó là quan điểm thực hay quan điểm được ghi nhận hoặc suy đoán là của người đó. Mọi hình thức quan điểm đều được bảo vệ, bao gồm các quan điểm về bản chất chính trị, khoa học, lịch sử, đạo đức hay tự nhiên. Hình sự hóa việc có một quan điểm là không phù hợp với đoạn 1.[9]  Quấy rối, đe dọa hay kỳ thị một người, bao gồm việc bắt giữ, giam giữ, truy tố hay bỏ tù một người vì những lý do quan điểm họ có thể có, là vi phạm điều 19 đoạn 1.[10]  

10. Nghiêm cấm mất kỳ nỗ lực nào nhằm cưỡng bức việc giữ hay không giữ bất kỳ quan điểm nào.[11] Tự do biểu đạt quan điểm của một người cũng cần phải bao gồm tự do không biểu đạt quan điểm của một người.

                   Tự do biểu đạt

11. Đoạn 2 yêu cầu Nhà nước thành viên phải đảm bảo quyền tự do biểu đạt, bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi loại thông tin và ý tưởng bất kể biên giới. Quyền này bao gồm việc biểu đạt và tiếp nhận những thông điệp của ý tưởng và quan điểm dưới mọi hình thức có thể truyền đạt sang người khác, theo quy định trong điều 19, đoạn 3 và điều 20.[12] Quyền này bao gồm các tranh luận chính trị,[13] bình luận về một người[14] và về các vấn đề chung,[15] vận động,[16] thảo luận về nhân quyền,[17] báo chí,[18] các biểu đạt văn hóa và nghệ thuật,[19] dạy học,[20] và tranh luận tôn giáo.[21] Quyền này cũng có thể bao gồm các quảng cáo thương mại. Phạm vi của đoạn 2 bao gồm cả các biểu đạt có thể được xem là gây mất lòng sâu sắc vì bị công kích,[22] mặc dù những biểu đạt này có thể bị hạn chế theo quy định của điều 19 đoạn 3 và điều 20.

12. Đoạn 2 bảo vệ mọi hình thức biểu đạt và hình thức truyền bá các biểu đạt đó. Những hình thức này bao gồm dạng nói, viết hay ngôn ngữ ký hiểu và cả các biểu đạt không lời như bằng hình hay vật thể nghệ thuật.[23] Các phương tiện biểu đạt bao gồm sách, báo,[24] tờ rơi,[25] áp-phích, biểu ngữ,[26] trang phục và các đơn từ pháp lý. [27]  Các phương tiện ấy bao gồm mọi hình thức âm thanh – hình ảnh cũng như các dạng biểu đạt bằng điện tử và qua internet.

                   Tự do biểu đạt và truyền thông

13. Một tờ báo hay truyền thông tự do, không kiểm duyệt và không giấu diếm là cần thiết trong bất kỳ xã hội nào để đảm bảo tự do quan điểm và tự do biểu đạt và thụ hưởng các quyền khác theo Công ước. Đó là một trong các trụ cột của một xã hội dân chủ.[28] Công ước bao hàm một quyền mà với quyền ấy truyền thông có thể tiếp nhận thông tin để từ đó có thể thực hiện chức năng của truyền thông.[29] Tự do truyền bá thông tin và các ý tưởng về các vấn đề xã hội và chính trị giữa những công dân, các ứng cử viên và đại biểu dân cử là cần thiết. Điều này có nghĩa là một tờ báo hay một phương tiện truyền thông có thể bình luận về một vấn đề xã hội mà không bị kiểm duyệt hay hạn chế và để thông tri quan điểm xã hội. [30] Gắn với điều đó, công chúng cũng có quyền tiếp nhận sản phẩm của truyền thông.[31]

14. Như là một phương tiện bảo vệ các quyền của người sử dụng truyền thông, bao gồm những người thiểu số về dân tộc và ngôn ngữ, được tiếp nhận rộng rãi các loại thông tin và ý tưởng, các Nhà nước thành viên phải đặc biệt quan tâm đến việc khuyến khích truyền thông độc lập và đa dạng.

15. Nhà nước thành viên phải cân nhắc đến mức độ phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, như các hệ thống truyền bá thông tin dựa vào internet và điện thoại di động, đã làm thay đổi đáng kể các hành vi thông tin trên toàn thế giới. Ngày nay có cả một mạng lưới toàn cầu để trao đổi thông tin và quan điểm mà không nhất thiết phải dựa vào những hình thức truyền thông đại chúng. Nhà nước thành viên phải tiến hành những bước cần thiết để thúc đẩy tính độc lập của những phương tiện truyền thông mới này và để đảm bảo các cá nhân có thể tiếp cận được với những phương tiện ấy.

16. Nhà nước thành viên phải đảm bảo rằng các phương tiện phát thanh truyền hình công vận hành một cách độc lập.[32] Theo đó, Nhà nước thành viên phải đảm bảo tính độc lập và tự do biên tập của những phương tiện ấy. Nhà nước thành viên phải cấp ngân sách theo cách thức không làm ảnh hưởng đến tính độc lập của các phương tiện này.

17. Các vấn đề khác về truyền thông được thảo luận trong phần sau của Bình luận chung này về những hạn chế với tự do biểu đạt.

                   Quyền tiếp cận thông tin

18.                 Điều 19, đoạn 2 bao hàm một quyền tiếp cận thông tin do các cơ quan công quyền nắm giữ. Các thông tin ấy bao gồm các dạng bản ghi do một cơ quan công quyền nắm giữ, bất kể hình thức lưu trữ, nguồn tin và ngày xác lập. Các cơ quan công quyền được nêu danh trong đoạn 7 của Bình luận chung này. Những cơ quan ấy có thể cũng bao gồm các pháp nhân đang thực hiện chức năng công. Như đã lưu ý, cũng theo điều 25 của Công ước, quyền tiếp cận thông tin bao gồm một quyền mà với quyền ấy truyền thông được tiếp cận thông tin về các vấn đề công[33] và quyền của công chúng nói chung được tiếp nhận sản phẩm truyền thông.[34] Các yếu tố của quyền tiếp cận thông tin cũng được đề cập trong các phần khác của Công ước. Như Ủy ban đã đưa ra bình luận chung số 16 về điều 17 của Công ước, mỗi cá nhân có quyền xác định qua một hình thức dễ hiểu, nếu, và nếu có, những dữ liệu cá nhân nào được lưu trữ dưới dạng các tập dữ liệu tự động, và vì mục đích gì, Mỗi cá nhân cũng phải có thể xác định cơ quan công quyền hay cá nhân hay tổ chức nào kiểm soát hoặc có thể kiểm soát dữ liệu cá nhân của mình. Nếu những tập số liệu đó bao gồm các dữ liệu cá nhân không đúng hoặc đã được thu thập hay xử lý không theo quy định của pháp luật, mọi cá nhân đều phải có quyền rectified dữ liệu của mình. Theo điều 10 của Công ước, một người tù không mất đi quyền tiếp cận thông tin y tế của mình.[35] Ủy ban, trong Bình luận chung số 32 về điều 14, đã đưa ra nhiều quyền về thông tin đối với những người bị buộc tội hình sự.[36] Theo quy định của điều 2, con người phải được nhận thông tin về các quyền theo Công ước nói chung.[37] Theo điều 27, một quyết định của một Nhà nước thành viên mà kết quả có thể là phải hy sinh cách sống và văn hóa của một nhóm thiểu số thì quá trình ra quyết định phải được tiến hành trong một quá trình chia sẻ thông tin và tham vấn với những cộng đồng bị ảnh hưởng.[38]

19. Để quyền tiếp cận thông tin có hiệu lực, Nhà nước thành viên phải chủ động đưa ra các cổng thông tin chính phủ vì lợi ích công. Nhà nước thành viên phải bằng mọi nỗ lực để đảm bảo tiếp cận những thông tin này được dễ dàng, nhanh chóng, hiệu quả và thực tiễn. Nhà nước thành viên cũng phải xây dựng những thủ tục cần thiết để một người có thể tiếp cận được thông tin, ví dụ như bằng các biện pháp lập pháp về tự do thông tin.[39] Những thủ tục ấy phải tạo điều kiện xử lý nhanh chóng các yêu cầu thông tin theo những nguyên tắc rõ ràng và phù hợp với Công ước. Chi phí yêu cầu thông tin không được trở thành rào cản phi lý trong tiếp cận thông tin. Cơ quan chức năng phải đưa ra lý do cho bất kỳ việc từ chối cung cấp tiếp cận thông tin nào. Phải có cơ chế để khiếu nại việc từ chối tiếp cận thông tin cũng như trong các trường hợp thất bại trong việc phản hồi yêu cầu tiếp cận thông tin.

                   Tự do biểu đạt và các quyền chính trị

20. Ủy ban, trong bình luận chung số 25 về sự tham gia vào các quan hệ công và quyền bầu cử, đã nhấn mạnh taafmquan trọng của tự do biểu đạt trong thực hành các quan hệ công và việc thực thi hiệu quả quyền bầu cử. Tự do truyền bá thông tin và ý tưởng về các vấn đề công và vấn đề chính trị giữa các công dân, các ứng cử viên và đại biểu dân cử là cần thiết. Điều này có nghĩa là một tờ báo hay phương tiện truyền thông khác có thể bình luận về một vấn đề công và để thông tri quan điểm công chúng mà không có kiểm duyệt hay hạn chế.[40] Nhà nước thành viên cần chú ý đến những chỉ dẫn trong bình luận chung số 25 về việc thúc đẩy và bảo vệ tự do biểu đạt trong bối cảnh này.

                   Việc áp dụng điều 19 (3)

21. Đoạn 3 biểu đạt rõ ràng rằng việc thực thi quyền tự do biểu đạt mang kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Vì lý do này, được phép có hai lĩnh vực hạn chế quyền này, có thể liên quan đến hoặc việc tôn trọng các quyền hay uy tín của người khác hay để bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự công (ordre public) hay vì sức khỏe nhân dân hoặc đạo đức chung. Tuy nhiên, khi Nhà nước thành viên đặt ra những hạn chế với việc thực hành quyền tự do biểu đạt, các biện pháp hạn chế này không được làm ảnh hưởng đến bản chất của quyền ấy. Ủy ban nhắc lại rằng không được nhầm lẫn giữa mối quan hệ giữa quyền và các hạn chế với quan hệ giữa thông lệ với ngoại lệ.[41] Ủy ban cũng nhắc lại quy phạm của điều 5 đoạn 1 của Công ước, theo đó “không nội dung nào trong Công ước này có thể được diễn giải để bất kỳ Nhà nước, nhóm hay người nào có bất kể quyền gì để tham gia vào bất kỳ hành động nào hay thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm phá hoại bất kỳ quyền và tự do nào đã được ghi nhận trong Công ước hay hạn chế những quyền và tự do ấy ở một phạm vi rộng hơn những hạn chế được cho phép trong Công ước này”.

22. Đoạn 3 đưa ra những điều kiện cụ thể và chỉ dưới những điều kiện này mới có thể áp dụng các hạn chế: các hạn chế này phải “được luật pháp quy định”; chỉ được áp dụng các hạn chế dựa trên những lý do đưa ra trong mục (a) và (b) của đoạn 3; và những hạn chế này phải tuân thủ những kiểm chứng nghiêm ngặt về tính cần thiết và quy mô phù hợp.[42]  Không được đưa ra những hạn chế với những lý do không nằm trong đoạn 3, ngay cả nếu những lý do này có thể phù hợp để áp dụng với hạn chế những quyền khác theo công ước. Những hạn chế này chỉ được áp dụng với những mục đích mà vì những mục đích ấy những hạn chế này được đặt ra, và phải trực tiếp liên quan đến nhu cầu cụ thể mà vì thế những hạn chế này được định liệu.[43]

23. Nhà nước thành viên phải đặt ra những biện pháp hiệu quả để bảo vệ khỏi những tấn công nhằm làm những ai đang thực thi quyền tự do biểu đạt của mình phải im lặng. Đoạn 3 không bao giờ được đưa ra làm căn cứ để bịt miệng bất kỳ việc thúc đẩy nền dân chủ đa đảng, chủ nghĩa dân chủ và các quyền con người.[44] Cũng không dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, việc tấn công một người, vì việc thực hành quyền tự do quan điểm hay biểu đạt của người ấy, bao gồm các hình thức tấn công như bắt giữ trái luật, tra tân, đe dọa mạng sống và sát hại, có thể coi là phù hợp với điều 19.[45] Các nhà báo thường là đối tượng của những nguy cơ này, bị đe dọa, và bị tấn công bị hoạt động của họ.[46] Tương tự với những người tham gia vào việc thu thập và phân tích thông tin về tình hình nhân quyền và những người công bố các báo cáo liên quan đến nhân quyền, bao gồm các thẩm phán và luật sư.[47] Những tấn cần công này phải được điều tra triệt để một cách nhanh chóng, và người tấn công phải bị truy tố,[48] và các nạn nhân, hay, trong trường hợp bị sát hại thì là đại diện của họ, phải nhận được các hình thức bồi hoàn thích đáng.[49]

24. Các hạn chế phải do luật quy định. Luật có thể bao gồm luật về đặc quyền nghị viện[50]  và luật về khinh miệt tòa án.[51] Vì bất kỳ một hạn chế nào với tự do biểu đạt đều tạo nên một sự cắt giảm nhân quyền nghiêm trọng, một hạn chế đưa ra do các lý do truyền thống, tôn giáo hay các luật tục đều không phù hợp với Công ước.[52]

25. Vì mục đích nêu trong đoạn 3, một thông lệ, để được coi là một “luật”, phải được xác lập với độ chính xác thích đáng để căn cứ vào đó một cá nhân có thể điều chỉnh hành vi của mình[53] và phải được đưa ra để công chúng có thể tiếp cận được. Một luật không thể  trao thẩm quyền quyết định hạn chế tự do biểu đạt cho bên nào có chức năng thừa hành việc hạn chế tự do biểu đạt.[54] Các luật phải có hướng dẫn phù hợp để hướng dẫn cho những người thừa hành có thể thực thi luật ấy trên cơ sở biết rõ những loại biểu đạt nào bị hạn chế và những loại biểu đạt nào không bị hạn chế.

26.                 Các luật hạn chế những quyền theo điều 19 đoạn 2, bao gồm các luật nêu trong đoạn 24, không những phải tuân thủ những yêu cầu chặt chẽ của điều 19 đoạn 3 mà còn phải phù hợp với những điều khoản và mục đích của Công ước.[55] Các luật không được vi phạm điều khoản không biệt đối xử của Công ước. Các luật không được đưa ra những hình phạt không phù hợp với Công ước, ví dụ như trừng phạt thân thể.[56]

27. Nhà nước thành viên phải chứng minh cơ sở pháp lý để đưa ra bất kỳ biện pháp nào hạn chế tự do biểu đạt.[57] Nếu, với một Nhà nước thành viên cụ thể, Ủy ban phải xem xét liệu một biện pháp cụ thể có thể được áp dụng theo luật, Nhà nước thành viên đó phải cung cấp thông tin chi tiết về luật ấy và về các hành động nằm trong phạm vi của luật ấy.[58]

28. Lý do hợp pháp đầu tiên để đưa ra biện pháp hạn chế nêu trong đoạn 3 là để tôn trọng các quyền hay uy tín của người khác. Thuật ngữ “các quyền” bao gồm các quyền con người ghi nhận trong Công ước và nhìn chung trong luật nhân quyền quốc tế. Ví dụ, hạn chế tự do biểu đạt nhằm bảo vệ quyền bầu cử dưới điều 25 hoặc các quyền dưới điều 17 (xem đoạn 37) là hợp pháp.[59] Những biện pháp hạn chế này phải được xây dựng một cách cẩn trọng: trong khi được phép hạn chế để bảo vệ người đi bỏ phiếu khỏi những hình thức biểu đạt tạo ra sự đe dọa hoặc cưỡng ép, những biện pháp hạn chế không được làm ảnh hưởng đến những tranh luận chính trị, ví dụ, kêu gọi tẩy chay một cuộc bầu cử không hợp lệ.[60] Thuật ngữ “người khác” có thể liên quan đến những người khác một cách đơn lẻ hay với những thành viên của một cộng đồng.[61] Tuy vậy, nó có thể, ví dụ, chỉ những thành viên cá thể của một cộng đồng được xác định bằng niềm tin tôn giáo[62] hay sắc tộc.[63]

29. Lý do hợp pháp thứ hai là bảo vệ an ninh quốc gia hay trật tự công (ordre public), hay sức khỏe cộng đồng hoặc đạo đức chung.

30. Nhà nước thành viên phải tuyệt đối cẩn trọng để đảm bảo rằng luật về tội phản quốc[64] và những quy định tương tự liên quan đến an ninh quốc gia, dù được coi là bí mật chính thức hay luật về xúi giục nổi loạn hay bất kỳ hình thức nào, phải được xây dựng và áp dụng theo cách thức tuân thủ những yêu cầu chặt chẽ của đoạn 3. Sẽ không phù hợp với đoạn 3 nếu, ví dụ, dung những luật này để áp chế hay bưng bít những thông tin liên quan đến công ích mà không làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, hay truy bức các nhà báo, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động môi trường, những người bảo vệ nhân quyền, hay những người khác vì truyền bá những thông tin đó.[65] Hay nhìn chung sẽ là không phù hợp nếu đưa vào những luật này những thông tin liên quan đến các lĩnh vực thương mại, ngân hàng hay tiến bộ khoa học.[66] Ủy ban đã thấy trong một trường hợp việc hạn chế ban hành một tuyên bố ủng hộ trong một tranh chấp lao động, bao gồm việc chủ trì một cuộc đình công quốc gia, với lý do an ninh quốc gia, là không chấp nhận được.[67]

31. Trên cơ sở duy trì trật tự công (ordre public), có thể, ví dụ, được phép trong những hoàn cảnh nhất định, hạn chế việc phát biểu trước công chúng tại một địa điểm công cộng cụ thể.[68] Contempt of court proceedings về các hình thức biểu đạt có thể bị hạn chế với lý do giữ trật tự công (ordre public). Để tuân thủ với đoạn 3, những quy trình thủ tục và hình phạt áp dụng phải được trưng dụng để đảm bảo việc thực thi quyền lực của toàn án nhằm duy trì các quy trình thủ tục ấy một cách trật tự.[69] Những thủ tục này dù sao cũng không được dung để hạn chế việc thực hành một cách hợp pháp quyền.

32. Ủy ban đưa ra trong Bình luận chung số 22 rằng, “khái niệm đạo đức bắt nguồn từ rất nhiều truyền thống xã hội, triết lý và tôn giáo; vì thế, các hạn chế,... vì mục đích bảo vệ đạo đức phải dựa trên những nguyên tắc không bắt nguồn chủ đạo từ một truyền thống đơn lẻ nào”. Bất kỳ hạn chế nào như vậy cần được hiểu dưới góc độ tính phổ quát của các quyền con người và nguyên tắc không phân biệt đối xử.

33. Các hạn chế phải là “cần thiết” vì một mục đích hợp pháp. Vì thế, ví dụ, việc cấm một quảng cáo thương mại bằng một ngôn ngữ, với quan điểm bảo vệ ngôn ngữ của một cộng đồng cụ thể, vi phạm nguyên tắc cân thiết nếu việc bảo vệ ấy có thể đạt được bằng những hình thức khác mà không hạn chế tự do biểu đạt.[70] Mặt khác, Ủy ban đã cân nhắc rằng một Nhà nước thành viên tuân thủ nguyên tắc cần thiết nếu Nhà nước ấy chuyển một giáo viên đã xuất bản tài liệu biểu hiện sự thù nghịch với một cộng đồng tôn giáo sang một vị trí không giảng dạy để bảo vệ quyền và tự do của trẻ em thuộc cộng đồng tôn giáo ấy trong trường học đó.[71]

34. Các biện pháp hạn chế không được quá mức. Ủy ban đã đưa ra trong bình luận chung số 27 rằng “các biện pháp hạn chế phải tuân thủ nguyên tắc phù hợp về quy mô; các biện pháp ấy phải phù hợp để đạt được chức năng bảo vệ; các biện pháp ấy phải là công cụ intrusive tối thiểu trong số những biện pháp có thể để đạt được chức năng bảo vệ; những biện pháp ấy phải có phù hợp về quy mô với lợi ích cần được bảo vệ... Nguyên tắc phù hợp về quy mô phải được tôn trọng không chỉ trong các luật đưa ra những biện pháp hạn chế mà còn cả với những cơ quan chức năng hành chính và tư pháp khi áp dụng luật”.[72] Nguyên tắc phù hợp về quy mô cũng phải tính đến những hình thức biểu đạt với từng vấn đề cụ thể cũng như với các phương tiện truyền bá hình thức biểu đạt. Ví dụ, Ủy ban đánh giá cao những biểu đạt không bị trói buộc trong những hoàn cảnh tranh luận công khai trong một xã hội dân chủ về những nhân vật của công chúng và trong giới chính trị.[73]

35. Khi một Nhà nước thành viên lấy một lý do hợp pháp làm cơ sở để hạn chế tự do biểu đạt, Nhà nước ấy phải chứng tỏ một cách cụ thể và với chính trường hợp ấy, bản chất chính xác của mối nguy cơ, sự cần thiết và tính phù hợp về quy mô của hành động cụ thể đã được tiến hành, đặc biệt bằng cách xác lập mối quan hệ trực tiếp và tức thì giữa việc biểu đạt bị hạn chế và nguy cơ.[74]

36. Ủy ban bảo lưu việc đánh giá xem, trong một tình huống cụ thể, có thể có những điều kiện khiến một hạn chế tự do biểu đạt là cần thiết.[75] Về việc này, Ủy ban nhắc lại rằng phạm vi của quyền tự do này không thể đánh giá bằng “sự khác biệt cho phép”[76] và để Ủy ban có thể thực hiện chức năng này, một Nhà nước thành viên, trong một trường hợp cụ thể, phải chứng tỏ một cách cụ thể bản chất chính xác của mối nguy cơ với bất kỳ lý do hợp pháp nào đã liệt kê trong đoạn 3 khiến cho Nhà nước ấy phải hạn chế tự do biểu đạt.[77]

Phạm vi hạn chế của các biện pháp hạn chế tự do biểu đạt ở một số lĩnh vực nhất định

37. Trong số những hạn chế lên các tranh luận chính trị đã khiến Ủy ban quan ngại có việc cấm vận động đến từng nhà,[78] hạn chế số lượng và hình thức tài liệu văn bản có thể được phân phát trong các chiến dịch tranh cử,[79] ngăn cản tiếp cận với các nguồn tin trong giai đoạn bầu cử, bao gồm truyền thông địa phương và quốc tế, hay các bình luận chính trị,[80] và hạn chế các đảng phái và chính trị gia đối lập tiếp cận các cổng truyền thông.[81] Mỗi biện pháp hạn chế phải phù hợp với đoạn 3. Tuy nhiên, Nhà nước thành viên có thể hạn chế political polling imminently trước cuộc bầu cử để duy trì tính toàn vẹn của quá trình bầu cử.[82]

38. Như đã lưu ý trong đoạn 13 và 20, về nội dung của các tranh luận chính trị, Ủy ban đã cho rằng trong bối cảnh tranh luận công khai về các nhân vật của công chúng trong lĩnh vực chính trị và các thể chế công, Công ước đánh giá cao những biểu đạt không bị trói buộc.[83] Vì thế, thực tế đơn thuần là, các hình thức biểu đạt được coi là xúc phạm một nhân vật của công chúng thì không đủ để làm căn cứ áp dụng hình phạt, cũng như các nhân vật của công chúng cũng có thể được hưởng lợi từ các quy định của Công ước.[84] Thêm nữa, mọi nhân vật của công chúng, bao gồm cả những người nắm giữ quyền lực chính trị cao nhất như người đứng đầu nhà nước và chính phủ, đều có thể là đối tượng hợp lẽ của những phê phán và đối lập về chính trị.[85] Theo đó, Ủy ban bày tỏ quan ngại với những luật về những vấn đề này, như tội khi quân,[86] desacato (bất kính),[87] không tôn trọng người có thẩm quyền,[88] không tôn trọng cờ và các biểu tượng, phỉ báng người đứng đầu nhà nước[89] và bảo vệ danh dự của các công chức,[90] và luật không nên quy định gia tăng hình phạt dựa vào tính chất của người bị công kích. Các nhà nước thành viên không nên cấm đoán việc phê phán các thể chế như quân đội hay chính quyền.[91]

39. Nhà nước thành viên phải đảm bảo hành lang pháp lý và hành chính điều chỉnh các phương tiện truyền thông đại chung phải nhất quán với các quy định trong đoạn 3.[92] Các hệ thống này phải tính đến sự khác biệt giữa báo in, truyền thanh truyền hình và internet, trong khi cũng phải lưu ý rằng các phương tiện truyền thông cũng có nhiều điểm chung. Từ chối cấp phép xuất bản báo hay các phương tiện truyền thông bằng bản in khác trên cơ sở những lý do ngoài điều kiện cụ thể đưa ra trong đoạn 3 là trái với điều 19. Những điều kiện này không bao giờ bao gồm việc cấm một ấn phẩm cụ thể, trừ phi có nội dung cụ thể và không thể tách rời, có thể bị cấm một cách hợp lẽ theo đoạn 3. Nhà nước thành viên phải tránh áp đặt các điều kiện cấp phép kiểu lựa chọn và phí lên các phương tiện pháp thanh truyền hình, bao gồm việc thu phí lên cộng đồng và và với các trạm phát song thương mại.[93] Tiêu chuẩn áp dụng các điều kiện này và phí cấp phép phải hợp lý và khách quan,[94] rõ ràng,[95] minh bạch,[96] không phân biệt đối xử và nhìn chung phải phù hợp với Công ước.[97] Cơ chế cấp phép truyền phát song qua truyền thông với khả năng hạn chế, như với phát thanh và truyền hình trong lãnh thổ và dịch vụ vệ tinh, phải dành tần số và thời lượng bình đẳng giữa các nhà truyền phát sóng của nhà nước, thương mại và cộng đồng. Ủy ban khuyến khích các nhà nước thành viên chưa thiết lập cơ quan cấp phép phát sóng độc lập và là dịch vụ công, có quyền xem xét các đơn đề nghị phát sóng và cấp phép nên thiết lập cơ quan này.[98]

40. Ủy ban nhấn mạnh nhận xét của Ủy ban trong Bình luận chung số 10 rằng “do sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại, cần có các biện pháp hiệu quả để ngăn chặn việc kiểm soát truyền thông vì sự kiểm soát đó sẽ can thiệp vào quyền của mỗi người thụ hưởng tự do biểu đạt”. Nhà nước thành viên không nên độc quyền kiểm soát truyền thông và phải khuyến khích tính đa nguyên của truyền thông.[99] Theo đó, Nhà nước thành viên phải tiến hành các hành động cần thiết và nhất quán với Công ước, để ngăn chặn việc chi phối hay tập trung truyền thông một cách bất hợp lý do các nhóm cơ quan truyền thông tư nhân trong những tình huống đã bị độc quyền hóa có thể có hại cho tính đa dạng của nguồn tin và quan điểm.

41. Phải cẩn trọng để đảm bảo rằng các hệ thống của chính phủ trợ cấp cho các cổng truyền thông và các quảng cáo của chính phủ[100] không bị sử dụng vào mục đích cản trở tự do biểu đạt.[101] Thêm nữa, không được đặt các phương tiện truyền thông tư nhân dưới các điều kiện kém hơn trong những chủ đề này để đảm bảo tiếp cận với các phương tiện truyền bá thông tin và tiếp cận tin tức.[102]

42. Việc xử phạt một cổng truyền thông, nhà xuất bản hay nhà báo chỉ vì phê phán chính phủ hay hệ thống chính trị xã hội được chính phủ tán thành[103] không bao giờ được coi là một hạn chế tự do biểu đạt cần thiết.

43. Bất kỳ hạn chế nào lên việc vận hành các trang web, trang blog hay bât skyf hệ thống truyền bá thông tin bằng internet, điện tử hay hệ thống nào khác, bao gồm cả các kệ thống phụ trợ thông tin như nhà cung cấp dịch vụ internet hay công cụ tìm kiếm, chỉ được phép ở mức độ phù hợp với đoạn 3. Những hạn chế được phép nói chung phải cụ thể về nội dung; việc cấm đoán chung chung hoạt động của một địa chỉ hay hệ thống cụ thể là không phù hợp với đoạn 3. Việc cấm một địa chỉ hay một hệ thống truyền bá thông tin không được xuất bản tài liệu chỉ dựa trên cơ sở là tài liệu ấy có thể phê phán chính phủ hay hệ thống chính trị xã hội được chính phủ ủng hộ là không phù hợp với đoạn 3.[104]

44. Báo chí là một chức năng do rất nhiều tác nhân thực hiện, bao gồm từ các nhà báo và nhà phân tích chuyên nghiệp cho tới các blogger và những người tham gia dưới các hình thức tự xuất bản bằng cách in ấn, qua internet hay bằng acsc phương tiện khác, cũng như hệ thống chung của Nhà nước về đăng ký hay cấp phép cho nhà báo phải phù hợp với đoạn 3. Chỉ được phép áp dụng các cơ chế cấp phép hạn chế nếu cần phải cung cấp cho các nhà báo  ưu tiên tiếp cận với những địa điểm hay sự kiện cụ thể. Những cơ chế ấy phải được áp dụng theo cách không phân biệt đối xử và phù hợp với điều 19 và các điều khoản khác của Công ước, dựa trên các tiêu chí khách quan và có tính đến việc báo chí là một chức năng do rất nhiều các tác nhân thực thi.

45. Thông thường, sẽ là không phù hợp với đoạn 3 nếu hạn chế tự do của nhà báo và những người khác muốn thực thi quyền tự do biểu đạt của họ (ví dụ như người muốn di chuyển đến các cuộc gặp mặt về nhân quyền)[105] để di chuyển ra ngoài Nước thành viên, hạn chế di chuyển vào nước thành viên với các nhà báo nước ngoài từ một số nước cụ thể[106] hay hạn chế tự do đi lại trong Nước thành viên của các nhà báo và những người điều tra nhân quyền (bao gồm khu vực bị ảnh hưởng của xung đột, khu vực thiên tai và các khu vực có cáo buộc vi phạm nhân quyền). Các nước thành viên phải công nhận và tôn trọng rằng quyền tự do biểu đạt bao hàm đặc quyền của báo chí không tiết lộ nguồn tin.[107]

46. Các nhà nước thành viên phải đảm bảo rằng các biện pháp chống khủng bố phải phù hợp với đoạn 3. Những hành vi phạm tội như “khuyến khích khủng bố”[108] và “hành vi quá khích”[109] hay các hành vi phạm tội “đề cao”, “ca tụng” hay “biện minh” cho khủng bố phải được định nghĩa rõ ràng để đảm bảo rằng những quy định ấy không dẫn tới việc can thiệp không cần thiết và quá mức tới tự do biểu đạt. Cũng phải tránh những hạn chế quá mức lên tiếp cận thông tin. Truyền thông đóng một vai trò quan trọng trong việc thông tri tới công chúng về các hành vi khủng bố và năng lực vận hành của truyền thông không nên bị hạn chế một cách trái luật. Theo đó, các nhà báo không nên bị xử phạt vì tiến hành các hoạt động chính đáng.

47. Các luật về phỉ báng phải được soạn thảo một cách cẩn trọng để đảm bảo những luật này tuân thủ đoạn 3, và rằng những luật này không làm, trong thực tế, kiềm chế tự do biểu đạt.[110] Tất cả các luật tương tự, đặc biệt là luật quy định xử phạt hình sự với tội phỉ báng, phải bao gồm các biện pháp bào chữa như xác minh sự thật và các luật này không nên được áp dụng cho các hình thức biểu đạt mà, về bản chất, không thể xác minh. Tối thiểu, với những bình luận về các nhân vật của công chúng, cần phải cân nhắc để tránh xử phạt hay thu hồi những thông điệp không đúng sự thật và trái luật đã được xuất bản do lỗi mà không có ác ý. [111] Trong bất kỳ trường hợp nào, tính công ích trong chủ thể phê phán phải được công nhận là một lý do bào chữa. Nhà nước thành viên phải cẩn trọng để tránh các biện pháp xử phạt và trừng phạt quá mức. Bất kỳ khi nào phù hợp, Nhà nước thành viên phải đưa ra những giới hạn hợp lý cho bên nguyên để hoàn trả chi phí cho bên thắng.[112] Nhà nước thành viên phải cần nhắc xóa bỏ việc hình sự hóa tội phỉ báng[113] và, trong bất kỳ trường hợp nào, luật hình sự chỉ được đem ra áp dụng với những trường hợp nghiêm trọng nhất và việc bỏ tù không bao giờ là một hình phạt phù hợp. Việc một Nhà nước thành viên buộc tội hình sự một người về tội phỉ báng như sau đó không khẩn trương tiến hành phiên tòa là không chấp nhận được – những động thái có tính đe dọa như vậy có thể hạn chế việc thực thi quyền tự do biểu đạt của người đó và những người một cách bất hợp pháp.[114]

48. Việc cấm đoán biểu trưng thiếu tôn trọng với một tôn giáo hay một hệ thống tin ngưỡng, bao gồm luật về báng bổ, là không phù hợp với Công ước, trừ khi dưới những hoàn cảnh cụ thể đã nêu trong điều 20 đoạn 2 của Công ước. Việc cấm ấy phải tuân thủ những yêu cầu chặt chẽ của điều 19 đoạn 3 cũng như trong các điều 2, 5, 17, 18 và 26. Vì thế, ví dụ, không được phép có bất kỳ luật nào có sự phân biệt tích cực hay tiêu cực với một tôn giáo hay một hệ thống tín ngưỡng cụ thể, hay với tín đồ của họ với tín độ một tôn giáo hoặc hệ thống tín ngưỡng khác, hay giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo. Cũng không được dùng những sự ngăn cấm ấy để ngăn chặn hay trừng phạt những phê phán với các lãnh tụ tôn giáo hay với những bình luận về các hệ thống tín ngưỡng và  giáo lý.[115]

49.  Các luật xử phạt việc biểu đạt quan điểm về các thực tế lịch sử là không phù hợp với các nghĩa vụ mà Công ước quy định cho các Nhà nước thành viên trong việc tôn trọng tự do quan điểm và biểu đạt.[116] Công ước không cho phép việc cấm đoán chung chung những biểu đạt của một quan điểm có tính sai trái hay một cách diễn dịch không đúng về các sự kiện đã qua. Không bao giờ được hạn chế quyền tự do quan điểm và, với tự do biểu đạt, những hạn chế này không bao giờ được vượt quá những gì cho phép trong đoạn 3 hay cần có theo điều 20.

                   Mối quan hệ giữa các điều 19 và 20

50. Các điều 19 và 20 tương ứng và bổ sung cho nhau. Các hành vi nêu trong điều 20 đều là đối tượng hạn chế trong điều 19 đoạn 3. Vì thế, một giới hạn được cho là hợp lý dựa vào điều 20 cũng phải tuân theo điều 19 đoạn 3.[117]

51. Điểm phân biệt các hành vi nêu trong điều 20 với các hành vi khác có thể là đối tượng hạn chế theo điều 19 đoạn 3 là, với các hành vi trong điều 20, Công ước chỉ ra biện pháp phản ứng cụ thể của Nhà nước cần phải có: phải có luật cấm. Chỉ với khía cạnh này điều 20 được coi là luật riêng (lex specialis) so với điều 19.

52. Nhà nước thành viên có nghĩa vụ phải có luật quy định cấm chỉ với những hình thức cụ biểu đạt cụ thể trong điều 20. Trong từng trường hợp Nhà nước hạn chế tự biểu đạt, cần phải minh chứng lệnh cấm và các điều khoản của nó tuân thủ nghiêm ngặt theo điều 19.



                     [1]    Xem Thông tin số 1173/năm 2003, Benhadj v. Algeria, Quan điểm được thông qua ngày 20 Tháng Bảy năm 2007; số 628/năm 1995, Park v. Republic of Korea, Quan điểm được thông qua ngày 5 Tháng Bảy năm 1996.

                                [2]   Xem Bình luận chung của Ủy ban số 24 (năm 1994) về các vấn đề liên quan đến bảo lưu khi phê chuẩn hoặc tham gia Công ước hay Nghị định thư Tùy chọn, hay về các tuyên bố với điều 41 của Công ước,, Biên bản chính thức của Đại hội đồng, Phiên thứ 50, phụ lục số 40 tập I  (A/50/40 (Vol. I)), phụ lụcV.

                     [3]   Xem Bình luận chung của Ủy ban số 29 (năm 2001) về thoái bộ trong điều kiện khẩn cáp, đoạn 13, Biên bản chính thức của Đại hội đồng, Phiên thứ 50, phụ lục số 40 tập I  (A/56/40 (Vol. I)), phụ lụcVI.

                     [4]   Bình luận chung số 29, đoạn 11.

                     [5]   Bình luận chung số 24.

                     [6]   Xem Bình luận chung của Ủy ban số 31 (năm 2004) về bản chất của nghĩa vụ pháp lý áp dụng cho các nước thành viên Công ước, đoạn 4, Biên bản chính thức của Đại hội đồng, Phiên thứ 50, phụ lục số 40 tập I  (A/59/40 (Vol. I)), phụ lục III

                     [7]   Xem Thông tin số 61/1979, Hertzberg et al. v. Finland, Quan điểm được thông qua ngày 2 Tháng Tư năm 1982.

                     [8]   Bình luận chung số 31, đoạn 8; Xem Thông tin số 633/năm 1995, Gauthier v. Canada, Quan điểm được thông qua ngày 7 Tháng Tư năm 1999.

                     [9]   Xem Thông tin số 550/93, Faurisson v. France, Quan điểm được thông qua ngày 8 Tháng 11 năm 1996.

                    [10]   Xem Thông tin số 157/năm 1983, Mpaka-Nsusu v. Zaire, Quan điểm được thông qua ngày 26 Tháng Ba năm 1986; số 414/năm 1990, Mika Miha v. Equatorial Guinea, Quan điểm được thông qua ngày 8 Tháng Bảy năm 1994.

                    [11]   Xem Thông tin số 878/năm 1999, Kang v. Republic of Korea, Quan điểm được thông qua ngày 15 Tháng Bảy năm 2003.

                    [12]   Xem communications Nos. 359/năm 1989 and 385/năm 1989, Ballantyne, Davidson and McIntyre v. Canada, Quan điểm được thông qua ngày 18 Tháng Mười năm 1990.

                     [13]   Xem Thông tin số 414/năm 1990, Mika Miha v. Equatorial Guinea.

                     [14]   Xem Thông tin số 1189/năm 2003, Fernando v. Sri Lanka, Quan điểm được thông qua ngày 31 Tháng Ba năm 2005.

                    [15]   Xem Thông tin số 1157/năm 2003, Coleman v. Australia, Quan điểm được thông qua ngày 17 Tháng Bảy năm 2006.

                    [16]   Nhận xét cuối cùng về Nhật Bản (CCPR/C/JPN/CO/5).

                    [17]   Xem Thông tin số 1022/năm 2001, Velichkin v. Belarus, Quan điểm được thông qua ngày 20 Tháng Mười năm 2005.

                    [18]   Xem Thông tin số 1334/năm 2004, Mavlonov and Sa’di v. Uzbekistan, Quan điểm được thông qua ngày 19 Tháng Ba năm 2009.

                    [19]   Xem Thông tin số 926/năm 2000, Shin v. Hàn Quốc, Quan điểm được thông qua ngày 16 Tháng Ba năm 2004.

                    [20]   Xem Thông tin số 736/97, Ross v. Canada, Quan điểm được thông qua ngày 18 Tháng Mười năm 2000.

                    [21]   Ibid.

                    [22]   Ibid.

                    [23]   Xem Thông tin số 926/năm 2000, Shin v. Hàn Quốc.

                    [24]   Xem Thông tin số 1341/năm 2005, Zundel v. Canada, Quan điểm được thông qua ngày 20 Tháng Ba năm 2007.

                    [25]   Xem Thông tin số 1009/năm 2001, Shchetoko et al. v. Belarus, Quan điểm được thông qua ngày 11 Tháng Bảy năm 2006.

                    [26]   Xem Thông tin số 412/năm 1990, Kivenmaa v. Finland, Quan điểm được thông qua ngày 31 Tháng Ba năm 1994.

                    [27]   Xem Thông tin số 1189/năm 2003, Fernando v. Sri Lanka.

                    [28]   Xem Thông tin số 1128/năm 2002, Marques v. Angola, Quan điểm được thông qua ngày 29 Tháng Ba năm 2005.

                    [29]   Xem Thông tin số 633/95, Gauthier v. Canada.

                    [30]   Xem Bình luận chung của Ủy ban số 25 (năm 1996) về điều 25 (Sự tham gia trong quan hệ công và quyền bầu cử), đoạn 25, Biên bản chính thức của Đại hội đồng, Phiên thứ 50, phụ lục số 40 tập I  (A/51/40 (Vol. I)), phụ lụcV.

                    [31]   Xem Thông tin số 1334/năm 2004, Mavlonov and Sa’di v. Uzbekistan.

                    [32]   Nhận xét cuối cùng về Cộng hòa Moldova (CCPR/CO/75/MDA).

                    [33]   Xem Thông tin số 633/95, Gauthier v. Canada.

                    [34]   Xem Thông tin số 1334/năm 2004, Mavlonov and Sa’di v. Uzbekistan.

                    [35]   Xem Thông tin số 726/năm 1996, Zheludkov v. Ukraine, Quan điểm được thông qua ngày 29 Tháng Mười năm 2002.

                    [36]   Xem Bình luận chung của Ủy ban số 32 (năm 2007) về quyền bình đẳng trước các tòa án và phiên tòa và quyền được xét xử công bằng, đoạn 33, Biên bản chính thức của Đại hội đồng, Phiên 62, Phụ lục số 40, tập I (A/62/40 (Vol. I)), phụ lụcVI

                    [37]   Bình luận chung số 31.

                    [38]   Xem Thông tin số 1457/năm 2006, Poma v. Peru, Quan điểm được thông qua ngày 27 Tháng Ba năm 2009.

                    [39]   Nhận xét cuối cùng về Azerbaijan (CCPR/C/79/Add.38 (năm 1994)).

                    [40]   Xem Bình luận chung số 25 về điều 25 của Công ước, đoạn 25. 

                    [41]   Xem Bình luận chung của Ủy ban số 27 on article 12, Biên bản chính thức của Đại hội đồng, Fifty-fifth Session, Phụ lục số 40, vol. I (A/55/40 (Vol. I)), phụ lụcVI, sect. A

                              [42]   Xem Thông tin số 1022/năm 2001, Velichkin v. Belarus, Quan điểm được thông qua ngày 20 Tháng Mười năm 2005.

                    [43]   Xem Bình luận chung của Ủy ban số 22, Biên bản chính thức của Đại hội đồng, Phiên 48, Phụ lục số 40 (A/48/40), phụ lụcVI

                    [44]    Xem Thông tin số 458/91, Mukong v. Cameroon, Quan điểm được thông qua ngày 21 Tháng Bảy năm 1994.

                    [45]   Xem Thông tin số 1353/năm 2005, Njaru v. Cameroon, Quan điểm được thông qua ngày 19 Tháng Ba năm 2007.

                    [46]   Tham khảo, ví dụ, Nhận xét cuối cùng về Algeria (CCPR/C/DZA/CO/3); Nhận xét cuối cùng về Costa Rica (CCPR/C/CRI/CO/5); Nhận xét cuối cùng về Sudan (CCPR/C/SDN/CO/3).

                    [47]   Xem Thông tin số 1353/năm 2005, Njaru v. Cameroon ; Nhận xét cuối cùng về Nicaragua (CCPR/C/NIC/CO/3); Nhận xét cuối cùng về Tunisia (CCPR/C/TUN/CO/5); Nhận xét cuối cùng về the Syrian Arab Republic (CCPR/CO/84/SYR); Nhận xét cuối cùng về Colombia (CCPR/CO/80/COL).

                    [48]   Ibid. and Nhận xét cuối cùng về Georgia (CCPR/C/GEO/CO/3).

                    [49]   Nhận xét cuối cùng về Guyana (CCPR/C/79/Add.121).

                              [50]   Xem Thông tin số 633/95, Gauthier v. Canada.

                    [51]   Xem Thông tin số 1373/năm 2005, Dissanayake v. Sri Lanka, Quan điểm được thông qua ngày 22 Tháng Bảy năm 2008.

                    [52]   Xem Bình luận chung số 32.

                    [53]   Xem Thông tin số 578/năm 1994, de Groot v. The Netherlands, Quan điểm được thông qua ngày 14 Tháng Bảy năm 1995.

                              [54]   Xem Bình luận chung số 27.

                    [55]   Xem Thông tin số 488/năm 1992, Toonen v. Australia, Quan điểm được thông qua ngày 30 Tháng Ba năm 1994.

                    [56]   Bình luận chung số 20, Biên bản chính thức của Đại hội đồng, Phiên 47, Phụ lục số 40 (A/47/40), phụ lụcVI, sect. A.

                    [57]   Xem Thông tin số 1553/năm 2007, Korneenko et al. v. Belarus, Quan điểm được thông qua ngày 31 Tháng Mười năm 2006.

                    [58]   Xem Thông tin số 132/năm 1982, Jaona v. Madagascar, Quan điểm được thông qua ngày 1 Tháng Tư năm 1985.

                              [59]   Xem Thông tin số 927/năm 2000, Svetik v. Belarus, Quan điểm được thông qua ngày 8 Tháng Bảy năm 2004.

                    [60]   Ibid.

                    [61]   Xem Thông tin số 736/97, Ross v. Canada, Quan điểm được thông qua ngày 18 Tháng Mười năm 2000.

                    [62]   Xem Thông tin số 550/93, Faurisson v. France; Nhận xét cuối cùng về Austria (CCPR/C/AUT/CO/4).

                    [63]   Nhận xét cuối cùng về Slovakia (CCPR/CO/78/SVK); Nhận xét cuối cùng về Israel (CCPR/CO/78/ISR).

                    [64]    Nhận xét cuối cùng về Hong Kong (CCPR/C/HKG/CO/2).

                    [65]   Nhận xét cuối cùng về Liên bang Nga (CCPR/CO/79/RUS).

y                  [66]   Nhận xét cuối cùng về Uzbekistan (CCPR/CO/71/UZB).

                    [67]   Xem Thông tin số 518/năm 1992, Sohn v. Hàn Quốc, Quan điểm được thông qua ngày 18 Tháng Ba năm 1994.

                    [68]   Xem Thông tin số 1157/năm 2003, Coleman v. Australia.

                    [69]   Xem Thông tin số 1373/năm 2005, Dissanayake v. Sri Lanka.

                    [70]   Xem Thông tin số 359, 385/89, Ballantyne , Davidson and McIntyre v. Canada.

                    [71]   Xem Thông tin số 736/97, Ross v. Canada, Quan điểm được thông qua ngày 17 Tháng Bảy năm 2006.

                    [72]   Bình luận chung số 27, đoạn 14. Tham khảo thêm Communications số 1128/năm 2002, Marques v. Angola; số 1157/năm 2003, Coleman v. Australia.

                    [73]   Xem Thông tin số 1180/năm 2003, Bodrozic v. Serbia và Montenegro, Quan điểm được thông qua ngày 31 Tháng Mười năm 2005.

                    [74]   Xem Thông tin số 926/năm 2000, Shin v. Hàn Quốc .

                    [75]   Xem Thông tin số 518/năm 1992, Sohn v. Hàn Quốc .

                    [76]   Xem Thông tin số 511/năm 1992, Ilmari Länsman, et al. v. Finland, Quan điểm được thông qua ngày 14 Tháng Mười năm 1993.

                    [77]   Xem Thông tin số 518/92, Sohn v. Hàn Quốc; số 926/năm 2000, Shin v. Hàn Quốc,.

                              [78]   Nhận xét cuối cùng về Nhật Bản (CCPR/C/JPN/CO/5).

                    [79]   Ibid.

                    [80]   Nhận xét cuối cùng về Tunisia (CCPR/C/TUN/CO/5).

                    [81]   Nhận xét cuối cùng về Togo (CCPR/CO/76/TGO); Nhận xét cuối cùng về Moldova (CCPR/CO/75/MDA).

                    [82]   Xem Thông tin số 968/năm 2001, Kim v. Republic of Korea, Quan điểm được thông qua ngày 14 Tháng Ba năm 1996.

                    [83]   Xem Thông tin số 1180/năm 2003, Bodrozic v. Serbia and Montenegro, Quan điểm được thông qua ngày 31 Tháng Mười năm 2005.

                    [84]   Ibid.

                    [85]   Xem Thông tin số 1128/năm 2002, Marques v. Angola.

                    [86]    Xem communications Nos. 422-424/năm 1990, Aduayom et al. v. Togo, Quan điểm được thông qua ngày 30 June năm 1994.

                    [87]   Nhận xét cuối cùng về Cộng hòa Dominica (CCPR/CO/71/DOM).

                    [88]   Nhận xét cuối cùng về Honduras (CCPR/C/HND/CO/1).

                    [89]   Xem Nhận xét cuối cùng về Zambia (CCPR/ZMB/CO/3), đoạn25.

                    [90]   Xem Nhận xét cuối cùng về Costa Rica (CCPR/C/CRI/CO/5), đoạn 11.

                    [91]   Ibid., and Xem Nhận xét cuối cùng về Tunisia (CCPR/C/TUN/CO/5), đoạn 91..

                    [92]   Xem Nhận xét cuối cùng về Việt Nam (CCPR/CO/75/VNM), đoạn 18, and Nhận xét cuối cùng về Lesotho (CCPR/CO/79/Add.106), đoạn 23.

                    [93]   Nhận xét cuối cùng về Gambia (CCPR/CO/75/GMB).

                    [94]   Xem Nhận xét cuối cùng về Lebanon (CCPR/CO/79/Add.78), đoạn 25.

                    [95]   Nhận xét cuối cùng về Kuwait (CCPR/CO/69/KWT); Nhận xét cuối cùng về Ukraine (CCPR/CO/73/UKR).

                              [96]   Nhận xét cuối cùng về Kyrgyzstan (CCPR/CO/69/KGZ).

                    [97]   Nhận xét cuối cùng về Ukraine (CCPR/CO/73/UKR).

                    [98]   Nhận xét cuối cùng về Lebanon (CCPR/CO/79/Add.78).

                    [99]   Xem Nhận xét cuối cùng về Guyana (CCPR/CO/79/Add.121), đoạn 19; Nhận xét cuối cùng về Liên bang Nga (CCPR/CO/79/RUS); Nhận xét cuối cùng về Việt Nam (CCPR/CO/75/VNM); Nhận xét cuối cùng về Italy (CCPR/C/79/Add. 37).

                   [100]   Xem Nhận xét cuối cùng về Lesotho (CCPR/CO/79/Add.106), đoạn 22.

                   [101]   Nhận xét cuối cùng về Ukraine (CCPR/CO/73/UKR).

                   [102]   Nhận xét cuối cùng về Sri Lanka (CCPR/CO/79/LKA); and Xem Nhận xét cuối cùng về Togo (CCPR/CO/76/TGO), đoạn 17.

                   [103]   Nhận xét cuối cùng về Peru (CCPR/CO/70/PER).

                            [104]   Nhận xét cuối cùng về the Syrian Arab Republic (CCPR/CO/84/SYR).

                   [105]   Nhận xét cuối cùng về Uzbekistan (CCPR/CO/83/UZB); Nhận xét cuối cùng về Morocco (CCPR/CO/82/MAR).

                   [106]   Nhận xét cuối cùng về Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (CCPR/CO/72/PRK).

                   [107]   Nhận xét cuối cùng về Kuwait (CCPR/CO/69/KWT).

                   [108]   Nhận xét cuối cùng về the Vương quốc Anh và Bắc Ailen (CCPR/C/GBR/CO/6).

                   [109]   Nhận xét cuối cùng về Liên bang Nga (CCPR/CO/79/RUS).

                   [110]   Nhận xét cuối cùng về Vương quốc Anh và Bắc Ailen (CCPR/C/GBR/CO/6).

                   [111]   Ibid.

                   [112]   Ibid.

                   [113]   Nhận xét cuối cùng về Italy (CCPR/C/ITA/CO/5); Nhận xét cuối cùng về the Cộng hòa Macedonia thuộc Nam Tư cũ (CCPR/C/MKD/CO/2).

                   [114]   Xem Thông tin số 909/năm 2000, Kankanamge v. Sri Lanka, Quan điểm được thông qua ngày 27 Tháng Bảy năm 2004.

                   [115]   Nhận xét cuối cùng về Vương quốc Anh và Bắc Ailen - the Crown Dependencies of Jersey, Guernsey and the Isle of Man (CCPR/C/79/Add.119). Xem Nhận xét cuối cùng về Kuwait (CCPR/CO/69/KWT).

                   [116]   Gọi là “Luật ký ức”, Xem Thông tin số 550/93, Faurisson v. France. Tham khảo thêm Nhận xét cuối cùng về Hungary (CCPR/C/HUN/CO/5) paragraph 19.

                            [117]   Xem Thông tin số 736/năm 1997, Ross v. Canada, Quan điểm được thông qua ngày 18 Tháng Mười năm 2000.


Các tin khác: