Bộ luật Lao động mở rộng quyền tổ chức
Bộ luật Lao động (sửa đổi) với 220 điều vừa được Quốc hội thông qua sáng ngày 20/11/2019 với 435 phiếu thuận, 9 phiếu chống và 9 phiếu trắng.


Một trong những điểm mới của Bộ luật Lao động (có hiệu lực từ ngày 1/1/2021) là quy định việc thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp không thuộc tổ chức Công đoàn Việt Nam nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động trong quan hệ lao động.

Đây cũng là một bước tiến của Nhà nước trong việc thực thi nghĩa vụ theo công ước của ILO (Công ước 98), Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR, 1966) và các cam kết quốc tế khác (bao gồm EVFTA). Bước tiến này đã được hoan nghênh bởi nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế (bao gồm ILO Việt Nam).

Tuy vậy, cách quy định trong Bộ luật mới chưa tạo ra sự bình đẳng giữa các tổ chức công đoàn. Ngay từ tên gọi, đều là công đoàn nhưng các tổ chức không thuộc hệ thống Công đoàn Việt Nam (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) thì chưa được gọi là "công đoàn", mà được gọi bằng tên "tổ chức đại diện của người lao động".

Theo Công ước 98 của ILO về áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể (1949), mà Việt Nam mới gia nhập vào giữa năm 2018, thì tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động đều được hưởng sự bảo vệ thích đáng chống lại sự can thiệp.

Việt Nam cũng đã có kế hoạch tham gia Công ước 87 của ILO về Quyền tự do hiệp hội và bảo vệ quyền được tổ chức (1948) trong những năm tới.

K.T


PHỤ LỤC


CÔNG ƯỚC (SỐ 98)

VỀ ÁP DỤNG NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA QUYỀN TỔ CHỨC VÀ THƯƠNG LƯỢNG TẬP THỂ, 1949

Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế,

Được Hội đồng quản trị của Văn phòng Lao động quốc tế triệu tập tại Giơ-ne-vơ ngày 8 tháng 6 năm 1949, trong kỳ họp thứ ba mươi, và

Sau khi đã quyết định chấp thuận một số đề nghị về việc áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể, là vấn đề thuộc điểm thứ tư trong chương trình nghị sự kỳ họp, và

Sau khi đã quyết định rằng những đề nghị đó sẽ mang hình thức một Công ước quốc tế,

Thông qua ngày 01 tháng 7 năm 1949, Công ước dưới đây, gọi là Công ước về Quyền tổ chức và thương lượng tập thể, 1949.

Điều 1

1. Người lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng trước mọi hành vi phân biệt đối xử chống lại công đoàn trong việc làm của họ.

2. Sự bảo vệ đó phải được áp dụng trước hết đối với những hành vi mà mục đích là nhằm:

a) phụ thuộc việc làm của người lao động vào một điều kiện là người đó không được gia nhập công đoàn hoặc phải từ bỏ tham gia công đoàn;

b) gây ra việc sa thải người lao động hoặc làm phương hại người đó bằng cách khác, với lý do là người đó gia nhập công đoàn, hoặc tham gia các hoạt động công đoàn ngoài giờ làm việc hoặc với sự đồng ý của người sử dụng lao động trong giờ làm việc.

Điều 2

1. Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng chống lại mọi hành vi của những phái viên hay thành viên của mỗi bên để can thiệp vào việc tổ chức điều hành và quản lý nội bộ của phía bên kia.

2. Những hành vi được coi là can thiệp vào nội bộ theo định nghĩa của Điều này, trước hết là những hành vi nhằm dẫn tới việc tạo ra những tổ chức của người lao động được sự chế ngự của một người sử dụng lao động hay một tổ chức của người sử dụng lao động, hoặc nhằm nâng đỡ những tổ chức của người lao động bằng tài chính hay bằng những cách khác, với ý đồ đặt các tổ chức đó dưới sự điều tiết của những người sử dụng lao động hay của những tổ chức của người sử dụng lao động.

Điều 3

Nếu cần thiét, phải thiết lập những cơ cấu phù hợp với điều kiện quốc gia, để đảm bảo cho việc tôn trọng quyền tổ chức đã được xác định trong các điều trên.

Điều 4

Nếu cần thiết, phải có những biện pháp phù hợp với điều kiện quốc gia để khuyến khích và xúc tiến việc triển khai và sử dụng hoàn tất các thể thức thương lượng tự nguyện giữa một bên là người sử dụng lao động và các tổ chức của người sự dụng lao động với một bên là các tổ chức của người lao động, nhằm quy định những điều khoản và điều kiện về sử dụng lao động bằng thoả ước tập thể.

Điều 5

1. Mức độ áp dụng những bảo đảm nêu trong Công ước này cho các lực lượng vũ trang hoặc cho cảnh sát sẽ do pháp luật hoặc quy định quốc gia quy định.

2. Theo những nguyên tắc được đề cập trong Đoạn 8, Điều 19 của Điều lệ Tổ chức Lao động quốc tế, việc một Nước thành viên phê chuẩn Công ước này sẽ không được coi là tác động tới mọi đạo luật, mọi phán quyết, mọi tập quán hoặc mọi thoả thuận nào đang tồn tại và đang dành cho các thành viên lực lượng vũ trang và cảnh sát những đảm bảo mà Công ước này đã quy định.

Điều 6

Công ước này không điều giải vị trí của các công chức, và bằng bất kỳ cách nào cũng không thể được giải thích là có phương hại cho các quyền hoặc cho quy chế của công chức.

Các Điều 7, 8 và từ 11 đến 16

Những quy định cuối cùng mẫu.

Các Điều 9 và 10

Tuyên bố áp dụng cho các lãnh thổ phi chính quốc.


 


CÔNG ƯỚC (SỐ 87)

VỀ QUYỀN TỰ DO HIỆP HỘI VÀ VỀ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN ĐƯỢC TỔ CHỨC, 1948

Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế,

Được Hội đồng quản trị của Văn phòng lao động quốc tế triệu tập tại Xan-Franxiscô ngày 17 tháng 6 năm 1948, trong kỳ họp thứ ba mươi mốt, và,

Sau khi đã quyết định chấp thuận dưới hình thức một Công ước, một số đề nghị về quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức, là vấn đề thuộc điểm thứ bảy trong chương trình nghị sự kỳ họp, và

Xét lời nói đầu của Điều lệ Tổ chức Lao động quốc tế tuyên bố “thừa nhận nguyên tắc tự do hiệp hội” là một phương tiện cải thiện điều kiện lao động và thiết lập hoà bình, và

Xét tuyên ngôn Phi-la-đen-phi-a khẳng định lại rằng “tự do phát biểu là và hiệp hội là điều thiết yếu để duy trì sự tiến bộ”, và

Xét rằng Hội nghị Tổ chức lao động quốc tế trong kỳ họp thứ ba mươi, đã nhất trí thông qua những nguyên tắc để làm cơ sở cho việc lập quy phạm quốc tế, và

Xét rằng Đại hội đồng Liên Hợp quốc trong kỳ họp thứ ba mươi, đã thừa nhận những nguyên tắc này và yêu cầu Tổ chức Lao động quốc tế tiếp tục mọi cố gắng để có thể thông qua một hay nhiều Công ước quốc tế,

Thông qua, ngày 09 tháng 7 năm 1948, Công ước dưới đây, gọi là Công ước về Quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức, 1948.

Phần I.

QUYỀN TỰ DO HIỆP HỘI

Điều 1

Mọi Nước thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế mà tại đó Công ước này có hiệu lực, cam kết thi hành những quy định dưới đây.

Điều 2

Người lao động và người sử dụng lao động, không phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào, đều không phải xin phép trước mà vẫn có quyền được tổ chức và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của mình, với một điều kiện duy nhất là phải tuân theo điều lệ của chính tổ chức đó.

Điều 3

1. Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động có quyền lập ra điều lệ, những quy tắc quản lý, tự do bầu các đại diện, tổ chức việc điều hành hoạt động và soạn thảo chương trình hoạt động của mình.

2. Các cơ quan có thẩm quyền phải tránh mọi sự can thiệp có tính chất hạn chế quyền đó, hoặc cản trở việc thi hành hợp pháp quyền đó.

Điều 4

Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động không thể bị bất cứ một cơ quan hành chính nào buộc phải giải tán hoặc đình chỉ.

Điều 5

Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động có quyền hợp thành các liên đoàn, tổng liên đoàn, và mọi tổ chức, liên đoàn hoặc tổng liên đoàn đó đều có quyền gia nhập đều có quyền liên kết với các tổ chức quốc tế của người lao động và người sử dụng lao động.

Điều 6

Những quy định trong Điều 2, 3 và 4 trên đây được áp dụng cho cả các liên đoàn, các tổng liên đoàn của các tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động.

Điều 7

Việc có tư cách pháp nhân của các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động, của các liên đoàn và tổng liên đoàn của các tổ chức đó, không thể phụ thuộc những điều kiện có tính chất hạn chế việc áp dụng những quy định của các Điều 2, 3 và 4 trên đây.

Điều 8

1.Trong khi thi hành những quyền mà Công ước này đã thừa nhận cho mình, người lao động, người sử dụng lao động và các tổ chức tương ứng của họ, cũng như mọi người và mọi tập thể có tổ chức khác, đều phải tôn trọng pháp luật trong nước

2. Pháp luật quôc gia không được có những quy định mang tính chất xâm hại, cũng như không được áp dụng với mục đích xâm hại tới những đảm bảo đã được quy định trong Công ước này.

Điều 9

1. Mức độ áp dụng những bảo đảm quy định trong Công ước này cho các lực lượng vũ trang và cảnh sát sẽ do pháp luật hoặc quy định quốc gia xác định.

2. Theo đúng những nguyên tắc được xác lập trong Đoạn 8, Điều 19 của Điều lệ Tổ chức Lao động quốc tế , việc một Nước thành viên phê chuẩn Công ước này sẽ không được coi là làm ảnh hưởng tới mọi đạo luật, mọi phán quyết, mọi tập quán hoặc mọi thoả thuận đã có và đã dành cho các thành viên của các lực lượng vũ trang, cảnh sát, những bảo đảm quy định trong Công ước này.

Điều 10

Trong Công ước này, thuật ngữ “tổ chức” nghĩa là mọi tổ chức nào của người lao động hoặc của người sử dụng lao động có mục đích xúc tiến và bảo vệ những lợi ích của người lao động hoặc của người sử dụng lao động.

Phần II.

VIỆC BẢO VỆ QUYỀN ĐƯỢC TỔ CHỨC

Điều 11

Mọi Nước thành viên nào của Tổ chức Lao động quốc tế mà tại đó Công ước này có hiệu lực, cam kết áp dụng mọi biện pháp cần thiết và thích hợp để bảo đảm cho người lao động và người sử dụng lao động được tự do thi hành quyền tổ chức.

Phần III.

NHỮNG QUY ĐỊNH KHÁC

Các Điều 12 và 13

Tuyên bố áp dụng cho các lãnh thổ phi chính quốc.

Phần IV.

NHỮNG QUY ĐỊNH CUỐI CÙNG

Các Điều từ 14 đến 21

Những quy định cuối cùng mẫu.



Các tin khác: