Kết luận của Ủy ban Quyền trẻ em LHQ về Việt Nam, 2012
Trong năm 2012, sau khi xem xét báo cáo định kỳ của Việt Nam về việc thực thi Công ước về quyền trẻ em (CRC, 1989), Ủy ban về Quyền trẻ em (cơ quan giám sát việc thực thi CRC) đã có bản kết luận, kèm theo các khuyến nghị dưới đây.

 


Ủy ban về quyền trẻ em

Phiên họp thứ 60


Từ ngày 29/5 đến 15/6/2012


Xem xét báo cáo do các quốc gia thành viên đệ trình theo Điều 44 của Công ước

Kết luận giám sát: Việt Nam

 

1.     Ủy ban xem xét báo cáo định kỳ kết hợp lần thứ 3, thứ 4 của Việt Nam (CRC/C/VNM/3-4) ở hội nghị lần thứ 1702 và 1703 (xem CRC/C/SR.1702 và 1703) tổ chức ngày 31/5/2012, thông qua ở hội nghị lần thứ 1705 tổ chức ngày 15/6/2012, đưa ra những kết luận giám sát sau.

 

I.      Phần mở đầu

2.      Ủy ban hoan nghênh việc đệ trình báo cáo định kỳ của Việt Nam (CRC/C/VNM/3-4) và văn bản trả lời danh sách các vấn đề (CRC/C/VNM/Q/3-4/Add.1) giúp cung cấp hiểu biết sâu sắc hơn về tình hình ở Việt Nam. Ủy ban đánh giá cao cuộc đối thoại cởi mở và mang tính xây dựng được tổ chức với phái đoàn cấp cao liên ngành của Việt Nam.

 

II.   Những biện pháp tiếp theo được thực thi và tiến bộ đã đạt được của Việt Nam

3.     Ủy ban hoan nghênh việc tích cực thông qua những văn bản pháp lý sau:

(a)   Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011;

(b)   Luật Người khuyết tật năm 2010;

(c) Luật Con nuôi năm 2010;

(d) Luật Bảo hiểm y tế năm 2008;

(e) Luật Quốc tịch năm 2008;

(f)  Luật Giáo dục năm 2005 và Luật sửa đổi bổ sung năm 2009;

(g) Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.

 

4.     Ủy ban hoan nghênh việc Việt Nam thông qua Công ước Lahay về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế năm 2011.

 

5.     Ủy ban hoan nghênh việc rút bảo lưu các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 5 của Nghị định thư không bắt buộc về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em bổ sung cho Công ước quốc tế về quyền trẻ em.

 

6.     Ủy ban cũng hoan nghênh việc ban hành các chương trình mục tiêu quốc gia, các biện pháp chính sách, thể chế liên quan đến trẻ em, và cụ thể như sau:

(a) Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 – 2020;

(b) Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2011 – 2020;

(c) Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2015 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020;

(d) Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 – 2015.

    

III. Những mối quan tâm chính và khuyến nghị

A.    Những biện pháp thực hiện tổng thể (Điều 4, 42, và khoản 6 Điều 44 của Công ước)

Về những khuyến nghị trước của Ủy ban

7.     Ủy ban hoan nghênh việc Việt Nam nỗ lực thực hiện kết luận giám sát của Ủy ban về báo cáo trước đó của Việt Nam (CRC/C/15/Add.200, năm 2003) và những bản báo cáo ban đầu theo quy định của Nghị định thư không bắt buộc về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (CRC/C/OPSC/VNM/CO/1, năm 2006) và Nghị định thư không bắt buộc về việc sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang (CRC/C/OPAC/VNM/CO/1, năm 2006). Tuy nhiên, Ủy ban lấy làm tiếc khi một vài vấn đề quan tâm và khuyến nghị chưa được thực hiện đầy đủ.

 

8.     Ủy ban hối thúc Việt Nam thực hiện các biện pháp cần thiết để đạt được những khuyến nghị chưa được thực thi hoặc thực thi chưa đủ, bao gồm những khuyến nghị liên quan đến luật pháp, sự điều phối, phân bổ nguồn lực, giám sát độc lập, tập huấn nâng cao năng lực rộng rãi và có hệ thống về Công ước, không phân biệt đối xử, đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em, quyền được giữ gìn bản sắc, tiếp cận bình đẳng về giáo dục và y tế, tư pháp người chưa thành niên và để cung cấp thông tin theo dõi đầy đủ cho những khuyến nghị trong kết luận giám sát hiện tại.

 

    Về luật pháp

9.     Ủy ban đánh giá cao việc thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Việt Nam đã nỗ lực để hài hòa luật trong nước với Công ước. Tuy nhiên, Ủy ban còn quan ngại về sự thiếu đồng bộ giữa luật pháp quốc gia và Công ước, cụ thể là khái niệm về trẻ em và tư pháp người chưa thành niên, cũng như tiến triển chậm của việc cải cách luật pháp. Ủy ban cũng quan ngại về việc thiếu sự gắn kết giữa các văn bản luật liên quan đến quyền trẻ em cũng như việc thiếu nguồn lực dành cho việc thực thi các luật này.

 

10. Ủy ban khuyến nghị Việt Nam tiếp tục sửa đổi luật pháp quốc gia cho phù hợp hoàn toàn với luật pháp quốc tế, đặc biệt là định nghĩa về trẻ em và tư pháp người chưa thành niên và đẩy nhanh quá trình cải cách luật pháp. Ủy ban còn khuyến nghị rằng cần tăng cường sự phối hợp và tính hệ thống của các văn bản pháp luật hỗ trợ việc thực thi Công ước. Việt Nam cần thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật và phân bổ nguồn lực đầy đủ cho việc thực thi hiệu quả các luật về trẻ em, đặc biệt là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, dự kiến sửa đổi vào năm 2013 cũng như các nghị định hướng dẫn thực thi Luật này.

 

Về sự phối hợp

11. Mặc dù các vấn đề về trẻ em đã được chuyển cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý từ năm 2007, Ủy ban quan ngại rằng sự chuyển giao quyền hạn của cơ quan chính quyền từ Trung ương đến cấp tỉnh, huyện, xã đã gây ra việc thực hiện Công ước không nhất quán, đặc biệt là ở cấp địa phương trong quá trình giải thể các ủy ban ở địa phương với cơ chế phối hợp trước đó. Trước tình hình trên, Ủy ban tiếp tục quan ngại về việc thiếu cơ chế phối hợp và nguồn nhân lực chịu trách nhiệm cho các vấn đề về trẻ em ở địa phương.

 

12. Ủy ban khuyến nghị Việt Nam nên thiết lập các cơ chế hiệu quả nhằm đảm bảo thực hiện Công ước nhất quán ở tất cả các tỉnh, thành phố bằng việc tăng cường điều phối giữa các cấp Trung ương, tỉnh/ thành phố, quận/ huyện và xã /phường. Vì vậy, Việt Nam cần khẩn trương tăng cường nguồn nhân lực, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội để thực hiện các chính sách về quyền trẻ em một cách toàn diện, nhất quán, có hệ thống từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã.

 

Về Chương trình hành động quốc gia

13. Mặc dù biết rằng Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 - 2020 sẽ sớm được thông qua, Ủy ban quan ngại về sự thiếu liên kết và điều phối phù hợp giữa các chính sách và chương trình quốc gia khác nhau có tác động đến trẻ em, làm giảm hiệu lực của một số chính sách và gây ra sự chồng chéo nhiệm vụ trong một số lĩnh vực.

 

14. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần thông qua Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em và bố trí nguồn tài chính cho việc thực hiện Chương trình có hiệu quả. Ủy ban cũng thúc giục Việt Nam tăng cường sự thống nhất và điều phối các kế hoạch, chương trình, chính sách để hỗ trợ thực hiện Công ước một cách toàn diện. Để làm được điều này, Việt Nam nên tiếp tục lồng ghép quyền trẻ em vào tất cả các chính sách, chương trình quốc gia và cần bố trí đủ nguồn nhân lực, kỹ thuật, tài chính cho việc thực hiện có hiệu quả các chính sách, chương trình này. Ủy ban khuyến nghị Việt Nam tiếp tục giám sát, đánh giá quá trình, kết quả của các chính sách, chương trình này nhằm tiếp tục hoàn thiện các chính sách, kế hoạch, chương trình liên quan đến trẻ em.

 

Về giám sát độc lập

15. Ủy ban đặc biệt nhấn mạnh lại mối quan tâm trước đó (CRC/C/15/Add.200, năm 2003 Khoản 12) về việc thiếu cơ quan giám sát độc lập nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền trẻ em, như đã được nêu ra trong Bản nhận xét số 2 của Ủy ban về vai trò của các cơ quan nhân quyền độc lập (CRC/GC/2002/2).

 

16. Ủy ban nhấn mạnh lại khuyến nghị rằng Việt Nam cần thiết lập một cơ quan giám sát độc lập có đủ nguồn nhân lực, tài chính và kỹ thuật nhằm đảm bảo tính độc lập, hiệu quả, phù hợp với Bản nhận xét số 2 của Ủy ban năm 2002 về vai trò của các cơ quan nhân quyền độc lập trong việc thúc đẩy, bảo vệ quyền trẻ em. Ủy ban khuyến khích Việt Nam nhanh chóng thiết lập một cơ quan nhân quyền độc lập có đủ nhân viên, tài chính để đảm bảo việc giám sát nhân quyền có hệ thống và toàn diện, bao gồm quyền trẻ em.

 

Về phân bổ nguồn lực

17. Mặc dù ghi nhận ngân sách dành cho giáo dục, y tế tăng lên trong những năm gần đây và những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhanh, Ủy ban tiếp tục quan ngại về sự thiếu nguồn lực dành cho trẻ em, cũng như sự chênh lệch trong việc phân bổ hỗ trợ dành cho trẻ em, đặc biệt là cho trẻ sơ sinh, các lĩnh vực bảo vệ, giáo dục và chăm sóc y tế dành cho trẻ em. Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến những trẻ em ở vùng sâu, vùng xa, trẻ khuyết tật, trẻ em dân tộc ít người. Ủy ban cũng quan ngại việc thiếu thông tin cụ thể về những nguồn lực dành cho trẻ em của Việt Nam. Mặc dù nhận thức rõ nỗ lực của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua về phòng, chống tham nhũng, bao gồm việc thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và thành lập Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng,  Ủy ban vẫn quan ngại về mức độ tham nhũng cao, điều này làm giảm ngân sách dành cho thực hiện quyền trẻ em.

 

18. Sau khi đánh giá những kết quả thực hiện khuyến nghị từ năm 2007 trong buổi thảo luận chung về nguồn lực dành cho công tác bảo vệ quyền trẻ em, Ủy ban khuyến nghị về trách nhiệm của Việt Nam:

(a) Xem xét và tăng mức phân bổ ngân sách để thực thi Công ước, đặt ưu tiên phân bổ ngân sách cho việc này. Về mặt này, Ủy ban thúc giục Việt Nam nên phân bổ thêm nguồn lực cho chính sách, chương trình bảo trợ xã hội, bao gồm bảo vệ trẻ em và vì vậy, cần quan tâm cụ thể tới trẻ em thiệt thòi về kinh tế, xã hội, đặc biệt là trẻ em ở vùng sâu, vùng xa, trẻ khuyết tật, trẻ em dân tộc ít người.

(b) Tăng cường năng lực vận dụng cách tiếp cận quyền trẻ em trong xây dựng ngân sách quốc gia bằng cách triển khai hệ thống theo dõi việc phân bổ và sử dụng nguồn lực cho trẻ em thông qua ngân sách, vì vậy cần quy định tính minh bạch trong đầu tư cho trẻ em;

(c) Đảm bảo tính minh bạch và có sự tham gia trong quá trình phân bổ ngân sách thông qua đối thoại xã hội, đặc biệt với sự tham gia của trẻ em khi điều kiện cho phép.

 

Thu thập dữ liệu

19. Ủy ban tiếp tục quan ngại về việc thiếu hệ thống thu thập dữ liệu tập trung liên quan đến tất cả các lĩnh vực của Công ước, mặc dù ý định của Việt Nam là giới thiệu những quy định mới về thu thập dữ liệu về trẻ em như đã đề ra trong quá trình sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Ủy ban cũng bày tỏ quan ngại về nguồn dữ liệu hạn chế liên quan tới việc thụ hưởng quyền trẻ em, đáng chú ý là các số liệu thống kê không thống nhất về mặt xã hội, công tác bảo vệ trẻ em, trẻ em lang thang, tình trạng bóc lột trẻ em và trẻ em ở nông thôn.

 

20. Ủy ban khuyến khích Việt Nam tiếp tục thực hiện kế hoạch xây dựng quy tắc thu thập dữ liệu về trẻ em nhằm giám sát việc thực hiện tất cả quyền trẻ em. Ủy ban khuyến nghị Việt Nam cần thiết lập hệ thống thu thập dữ liệu tập trung cùng với những chỉ số tiêu chuẩn về quyền trẻ em được chia sẻ trong tất cả các bộ, ngành liên quan. Dữ liệu đã thu thập cần được phân tích để làm nền tảng cho việc đánh giá tiến bộ và xây dựng các chương trình, chính sách thực thi Công ước. Vì vậy, Việt Nam cần đảm bảo dữ liệu thu thập được phân loại theo độ tuổi, giới tính, nơi ở, dân tộc và tình trạng kinh tế - xã hội để thuận tiện cho việc phân tích tình hình của mọi trẻ em ở Việt Nam. Ủy ban thúc giục Việt Nam tập trung thu thập số liệu thống kê trong những lĩnh vực nhạy cảm như bạo lực với trẻ em, xâm hại và bóc lột trẻ em, bao gồm xâm hại tình dục và kinh tế, trẻ lang thang, trẻ ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

 

Tuyên truyền và nâng cao nhận thức

21. Ủy ban bày tỏ quan ngại về sự hiểu biết hạn chế của trẻ em, xã hội và các chuyên gia làm việc với trẻ em và vì trẻ em về Công ước, cách tiếp cận dựa trên quyền được nêu trong Công ước. Ủy ban đánh giá cao thông tin Việt Nam cung cấp trong buổi đối thoại về việc Công ước được dịch sang 8 ngôn ngữ của các dân tộc ít người, tuy nhiên Ủy ban còn quan ngại rằng Công ước chưa được biên dịch sang các ngôn ngữ còn lại và chưa được phổ biến rộng rãi cho các dân tộc ít người, điều này cản trở nhận thức của trẻ em dân tộc ít người về các quyền và quyền tự do cơ bản của các em.

 

22. Ủy ban thúc giục Việt Nam nỗ lực hơn nữa để đưa các vấn đề về quyền trẻ em vào chương trình giảng dạy ở các cấp giáo dục khác nhau và tăng cường các chương trình nâng cao nhận thức, bao gồm các chiến dịch về Công ước, cho trẻ em, gia đình, các nhóm chuyên gia làm việc với trẻ em và vì trẻ em. Về khía cạnh này, Ủy ban khuyến nghị Việt Nam cần xem xét xây dựng kế hoạch hành động quốc gia về giáo dục quyền con người, như đã khuyến nghị trong khuôn khổ của Chương trình Thế giới về giáo dục quyền con người. Ủy ban cũng khuyến nghị Việt Nam cần đảm bảo phổ biến Công ước một cách phù hợp tới các dân tộc ít người, bao gồm con em của họ, bằng ngôn ngữ riêng của họ và thực hiện các biện pháp hiệu quả nhằm đảm bảo tuyên truyền thực sự.

 

Tập huấn

23. Mặc dù có thông tin về tập huấn dành cho các chuyên gia làm việc với trẻ em và vì trẻ em, Ủy ban lấy làm tiếc rằng công tác tập huấn còn dàn trải, chưa được thực hiện có hệ thống tới tất cả các nhóm chuyên gia này.

 

24. Ủy ban nhắc lại khuyến nghị rằng cần đảm bảo tập huấn liên tục, bắt buộc và có hệ thống về quyền trẻ em cho các chuyên gia, đặc biệt là các cán bộ thực thi luật pháp, công tố viên, thẩm phán, luật sư, giáo viên, nhân viên y tế và nhân viên làm việc trong các cơ sở chăm sóc thay thế dành cho trẻ em.

 

Hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự

25. Ủy ban hoan nghênh tiến bộ đạt được trong việc thúc đẩy môi trường xã hội dân sự ở Việt Nam bao gồm việc thành lập Hội Bảo vệ quyền trẻ em năm 2008 và dự thảo Luật về Hội. Tuy nhiên, Ủy ban còn quan ngại về  phạm vi giám sát hạn chế của các tổ chức xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam. Ủy ban cũng quan ngại về thiếu sự hợp tác, điều phối hiệu quả giữa các tổ chức xã hội dân sự và các cơ quan chính phủ trong việc thực hiện quyền trẻ em.

 

26. Ủy ban nhấn mạnh vai trò quan trọng của các tổ chức xã hội dân sự trong việc thực hiện các điều khoản của Công ước, bao gồm các quyền dân sự và quyền tự do. Ủy ban khuyến khích Việt Nam tiếp tục tăng cường hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự, đặc biệt là các tổ chức phi chính phủ hoạt động dựa trên quyền con người và các tổ chức xã hội dân sự hoạt động trong các lĩnh vực khác một cách hệ thống hơn trong suốt các giai đoạn thực hiện Công ước. Ủy ban thúc giục Việt Nam tăng cường nỗ lực để dự thảo Luật về Hội có hiệu lực thực thi.

 

B.   Định nghĩa trẻ em (Điều 1 Công ước)

27. Mặc dù Việt Nam dự định sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 nhằm tăng tuổi trẻ em cho phù hợp với Công ước, Ủy ban quan ngại về việc theo luật hiện hành ở Việt Nam thì chỉ những cá nhân dưới 16 tuổi mới được coi là trẻ em.

 

28. Ủy ban thúc giục Việt Nam nhanh chóng sửa đổi luật pháp quốc gia, đặc biệt là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 để tăng tuổi trẻ em lên 18 tuổi cho phù hợp với định nghĩa của Công ước.

 

C.   Những nguyên tắc chung (Điều 2, 3, 6 và 12 Công ước)

Không phân biệt đối xử

29. Ủy ban đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong việc xóa bỏ phân biệt đối xử với các nhóm trẻ em dễ bị tổn thương. Điều này bao gồm việc thông qua các biện pháp đặc biệt để cải thiện dịch vụ giáo dục, y tế cho trẻ em dân tộc ít người, trẻ khuyết tật và trẻ di cư. Tuy nhiên, Ủy ban đặc biệt quan ngại về một số luật và thực tiễn tiếp tục phân biệt đối xử với trẻ em, sự kéo dài phân biệt đối xử trực tiếp, gián tiếp với những nhóm trẻ em dễ bị tổn thương ở Việt Nam. Ủy ban quan ngại các vấn đề cụ thể sau:

(a)   Sự kỳ thị và phân biệt đối xử trong xã hội còn tiếp diễn với trẻ khuyết tật dẫn tới tình trạng trẻ bị gạt ra bên lề xã hội;

(b) Sự chênh lệch kéo dài trong cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội giữa trẻ thuộc dân tộc Kinh và dân tộc ít người. Điều này đi đôi với các quan điểm xã hội tiêu cực chống lại dân tộc ít người;

(c)  Trẻ di cư bị gạt ra bên lề xã hội là hậu quả của việc các em không được đăng ký tạm trú và không được tiếp cận với dịch vụ công cơ bản;

(d) Sự phân biệt đối xử với trẻ em gái – những trẻ em phải nghỉ học, kết hôn sớm, đặc biệt ở vùng núi – và chính sự phân biệt đó cũng dẫn đến nạn nạo phá thai.

 

30. Theo Điều 2 của Công ước, Ủy ban thúc giục Việt Nam đảm bảo rằng tất cả trẻ em ở Việt Nam được hưởng các quyền bình đẳng trong Công ước, không có sự phân biệt đối xử và cần thực hiện các việc sau:

(a)  Khẩn trương tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo xóa bỏ  mọi hình thức phân biệt đối xử với trẻ khuyết tật, đặc biệt trong hệ thống giáo dục, y tế và cung cấp các dịch vụ cơ bản. Việt Nam cần sửa đổi luật pháp để đảm bảo nghiêm cấm phân biệt đối xử với trẻ khuyết tật như đã nêu trong khuyến nghị trước đó (CRC/C/15/Add.200, năm 2003 Khoản 23 (điểm a)); có các hành động truyền thông hình ảnh tích cực của trẻ khuyết tật trong cộng đồng và phát động các phong trào nhằm nâng cao nhận thức, đấu tranh chống sự kỳ thị với trẻ khuyết tật.

(b) Thông qua và thực hiện có hiệu quả chiến lược khả thi, toàn diện nhằm ngăn ngừa phân biệt sắc tộc để đảm bảo rằng các dân tộc ít người không phải chịu thiệt thòi vì đặc điểm riêng của họ, trên cơ sở xem xét tất cả các quy định liên quan của Tuyên bố và Chương trình hành động Durban; đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng tới các dịch vụ xã hội đối với các nhóm trẻ em, đặc biệt chú trọng tới trẻ em dân tộc ít người;

(c)  Lồng ghép vấn đề di cư vào các chính sách, chương trình chống phân biệt đối xử và xem xét lại các dịch vụ hiện hành để cải thiện sự tiếp cận của trẻ di cư;

(d) Phát động các chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng bao gồm các chiến dịch chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử với trẻ em gái; tập trung vào các em bỏ học, kết hôn sớm, đặc biệt ở vùng núi, nạn nạo phá thai nhi nữ và đảm bảo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong tất cả các chính sách, chương trình chống phân biệt đối xử;

(e)  Thiết lập hệ thống giám sát, đánh giá chi tiết nhằm theo dõi chặt chẽ tiến bộ và kết quả của các chương trình, chính sách, thông báo tiến bộ đạt được cho Ủy ban trong bản báo cáo thường kỳ tiếp theo. 

 

Lợi ích tốt nhất của trẻ

31. Ủy ban hoan nghênh phần giới thiệu về nguyên tắc lợi ích tốt nhất của trẻ trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, lưu ý rằng các dự thảo luật khác nhau, bao gồm dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ, chăm sóc trẻ em năm 2004, cần áp dụng chặt chẽ nguyên tắc này. Tuy nhiên, Ủy ban quan ngại rằng nguyên tắc trên chưa được đưa vào tất cả các văn bản pháp luật tác động đến trẻ em, hiểu biết về nguyên tắc trên còn chưa đủ và chưa được áp dụng đầy đủ trong các quyết định hành chính, tư pháp.

 

32. Ủy ban thúc giục Việt Nam tập trung nỗ lực nhằm thông qua tất cả các dự thảo luật quan trọng liên quan đến nguyên tắc lợi ích tốt nhất của trẻ em. Ủy ban khuyến nghị thêm rằng Việt Nam cần tăng cường nỗ lực để đảm bảo nguyên tắc lợi ích tốt nhất của trẻ có trong tất cả các luật tác động đến trẻ em, nguyên tắc này cần được phổ biến rộng rãi, phù hợp, áp dụng liên tục trong toàn bộ hệ thống pháp luật, các quy trình lập pháp, hành chính, tư pháp và các chính sách, chương trình, dự án liên quan có tác động đến trẻ em. Như vậy, Việt Nam cần xây dựng các thủ tục, tiêu chuẩn để định hướng cho việc xác định lợi ích tốt nhất của trẻ trong mỗi lĩnh vực và phổ biến tới các tổ chức phúc lợi xã hội, cá nhân, cộng đồng, tòa án, cơ quan hành chính, cơ quan luật pháp. Tính hợp pháp của các phán quyết, quyết định hành chính, tư pháp nên được đánh giá dựa trên nguyên tắc này, chỉ rõ tiêu chuẩn áp dụng trong việc đánh giá cá nhân về lợi ích tốt nhất của trẻ.

 

Quyền được sống, tồn tại và phát triển

33. Ủy ban lưu ý rằng tai nạn thương tích, hầu hết có thể phòng tránh được, đặc biệt là các vụ liên quan đến đuối nước, tai nạn giao thông và tai nạn ở nhà, là nguyên nhân nghiêm trọng gây tử vong cho trẻ em.

 

34. Ủy ban khuyến nghị Việt Nam cần tăng cường các biện pháp nhằm bảo vệ trẻ khỏi bị tai nạn thương tích, đặc biệt là đuối nước, tai nạn giao thông và tai nạn ở nhà thông qua việc thực hiện hiệu quả Chương trình quốc gia phòng, chống tai nạn thương tích giai đoạn 2012 - 2015. Ủy ban còn khuyến nghị thêm rằng Việt Nam cần tiếp tục đưa phòng, chống tai nạn thương tích thành một trong những ưu tiên và mục tiêu của các chương trình, chính sách quốc gia. Ủy ban cũng khuyến nghị Việt Nam cần đưa các lớp học bơi vào chương trình học nhằm phòng, chống đuối nước trẻ em và tăng cường các chiến dịch truyền thông nâng cao ý thức tham gia giao thông của trẻ em, cha mẹ, cộng đồng nói chung.

 

Tôn trọng ý kiến của trẻ

35. Ủy ban hoan nghênh các biện pháp luật pháp khác nhau được thông qua trong việc rà soát luật pháp có nội dung công nhận quyền được lắng nghe của trẻ em, cũng như các quyết định hành chính, tư pháp, bao gồm Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật Tố tụng năm 2004, các diễn đàn dành cho trẻ em ở các tỉnh và cấp quốc gia. Tuy nhiên, Ủy ban còn quan ngại về:

(a)  Sự thiếu nhận thức về tầm quan trọng của nguyên tắc và việc áp dụng thiếu tính hệ thống về quyền trẻ em được lắng nghe trong mọi hoàn cảnh, bao gồm việc lắng nghe có tính pháp lý;

(b) Việc thiếu sự tham khảo ý kiến của trẻ em một cách có hệ thống trong quá trình xây dựng luật pháp, chính sách tác động đến trẻ em ở các cấp quốc gia, vùng và địa phương, còn thiếu những hướng dẫn cụ thể về yêu cầu sự tham gia của trẻ em vào quá trình xây dựng kế hoạch tương lai liên quan đến trẻ em.

 

36. Theo Điều 12 Công ước và Bản nhận xét số 12 của Ủy ban năm 2009 về quyền được lắng nghe của trẻ, Ủy ban khuyến nghị Việt Nam cần:

(a) Triển khai các chương trình có nguồn kinh phí đầy đủ để nâng cao nhận thức về quyền trẻ em, bao gồm các chiến dịch hướng đến trẻ em, cha mẹ, giáo viên, cán bộ hành chính nhà nước, cán bộ tư pháp và xã hội nói chung nhằm tìm hiểu ý kiến, khuyến khích sự tham gia của trẻ em vào tất cả vấn đề tác động đến trẻ, trên quan điểm thể chế hóa sự tham gia có ý nghĩa của trẻ em;

(b) Tiến hành các biện pháp nhằm tăng cường sự tham gia của trẻ em trong quá trình xây dựng luật pháp, chính sách liên quan đến trẻ, bao gồm việc củng cố các Hội đồng trẻ em bằng phương pháp làm việc thân thiện với trẻ em và đảm bảo rằng quan điểm của trẻ em được coi trọng đúng mức.

 

C. Quyền dân sự và quyền tự do (Điều 7, 8, 13–17, 19 và Khoản a Điều 37 của Công ước)

Đăng ký khai sinh

37. Ủy ban nhận thấy sự gia tăng đáng kể tỉ lệ đăng ký khai sinh trong những năm gần đây do Việt Nam đã thông qua nhiều biện pháp hành chính, luật pháp, bao gồm công nhận bằng văn bản pháp luật quyền đăng ký khai sinh theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, cũng như việc miễn phí đăng ký khai sinh vào năm 2007. Tuy nhiên, Ủy ban bày tỏ quan ngại về sự chênh lệch tỉ lệ đăng ký khai sinh giữa các vùng miền và các dân tộc, theo đó, hai vùng nghèo nhất là Tây Bắc và Tây Nguyên vẫn là nơi có tỷ lệ đăng ký khai sinh thấp nhất. Ủy ban còn quan ngại rằng các bậc cha mẹ, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa không nhận thức được các yêu cầu và tầm quan trọng của việc đăng ký khai sinh.

 

38. Nhắc lại khuyến nghị trước đây (CRC/C/15/Add.200. năm 2003 Khoản 32), Ủy ban khuyến nghị Việt Nam cần tiếp tục tăng cường các nỗ lực nhằm đảm bảo đăng ký khai sinh cho mọi trẻ em, đặc biệt chú ý đến trẻ em ở vùng sâu, vùng xa, miền núi và tổ chức các chiến dịch nâng cao nhận thức về quyền của mọi trẻ em được đăng ký khai sinh khi ra đời, bất kể trẻ em thuộc dân tộc, tầng lớp xã hội nào, cha mẹ của trẻ sống ở đâu.

 

Giữ gìn bản sắc dân tộc

39. Ủy ban quan ngại về khả năng hạn chế của trẻ em dân tộc ít người trong việc gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc.

 

40. Theo Điều 8 của Công ước, Ủy ban thúc giục Việt Nam đảm bảo tôn trọng việc gìn giữ bản sắc dân tộc cho mọi trẻ em và có biện pháp hiệu quả để xóa bỏ hành động đồng hóa dân tộc ít người với dân tộc Kinh. Để đạt được điều này, Ủy ban thúc giục Việt Nam thông qua các biện pháp hành chính, luật pháp để làm rõ các quyền này của trẻ em, như là tên gọi, văn hóa và ngôn ngữ của trẻ em dân tộc ít người.

 

 

Quyền tự do hội họp, bày tỏ ý kiến và tiếp cận thông tin

41. Ủy ban ghi nhận thông tin do Việt Nam cung cấp trong buổi đối thoại rằng trẻ em có khả năng chính thức thành lập hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, Ủy ban quan ngại và lưu ý rằng quyền tự do thành lập hội của trẻ em trên thực tế còn hết sức hạn chế. Ủy ban cũng bày tỏ thêm quan ngại về còn nhiều hạn chế quyền tự do bày tỏ ý kiến của trẻ em và khả năng tiếp cận thông tin có hạn của trẻ em ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Ủy ban quan ngại trước thực tế tất cả nguồn thông tin – và cụ thể là phương tiện truyền thông – vẫn còn do Chính phủ kiểm soát và không được phép đa dạng hóa.

 

42. Ủy ban thúc giục Việt Nam sửa đổi luật pháp và cả các biện pháp khác bằng việc xúc tiến thông qua Luật về Hội để trẻ em thực sự có quyền tự do thành lập các hội, tổ chức cần thiết cho trẻ. Hơn nữa, Ủy ban thúc giục Việt Nam thực hiện các biện pháp hiệu quả để xóa bỏ tất cả các hạn chế trong việc tự do bày tỏ ý kiến của trẻ em và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin, tài liệu đa dạng từ các nguồn ở cấp quốc gia, quốc tế dưới mọi hình thức, bao gồm việc truy cập internet để đảm bảo rằng trẻ em được lắng nghe nhiều ý kiến khác nhau.

 

Tra tấn, các hình thức đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phẩm giá, hoặc trừng phạt

43. Ủy ban ghi nhận việc Việt Nam xem xét gia nhập Công ước chống Tra tấn và các hình thức đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phẩm giá. Tuy nhiên, Ủy ban bày tỏ quan ngại sâu sắc rằng nhiều trẻ em vẫn còn bị đối xử tàn nhẫn hoặc bị tra tấn trong khi bị giam giữ hành chính tại các trung tâm cai nghiện, bao gồm việc áp dụng biện pháp biệt giam.

 

44. Theo quy định tại khoản a Điều 37 của Công ước, Ủy ban thúc giục Việt Nam:

(a) Thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn chặn, nghiêm cấm và bảo vệ trẻ em trong các trung tâm cai nghiện khỏi tất cả các hình thức tra tấn hoặc các hình thức đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phẩm giá;

(b) Thiết lập cơ chế khiếu nại dễ tiếp cận đối với trẻ em tại các trung tâm trên, trong đó trẻ em có quyền quyết định khiếu nại;

(c)  Đảm bảo điều tra nhanh chóng, độc lập, hiệu quả tất cả trường hợp tố cáo việc trẻ bị tra tấn hoặc đối xử tồi tệ và người phạm tội phải bị truy tố thích đáng;

(d) Cung cấp dịch vụ chăm sóc, bồi thường và phục hồi cho các nạn nhân;

(e)  Phê chuẩn Công ước chống tra tấn hoặc các hình thức đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phẩm giá và xem xét việc phê chuẩn Nghị định thư không bắt buộc của Công ước đó.

 

Trừng phạt thân thể

45. Ủy ban quan ngại về sự phổ biến của việc trừng phạt thân thể trong gia đình và nhiều cha mẹ vẫn cho rằng tát con là một biện pháp phù hợp để kỉ luật trẻ. Mặc dù ghi nhận tuyên bố của Việt Nam trong buổi đối thoại rằng Việt Nam dự kiến xem xét điều khoản về trừng phạt thân thể khi sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Ủy ban tiếp tục quan ngại rằng Việt Nam vẫn chưa thông qua luật nghiêm cấm tất cả các hình thức trừng phạt thân thể trong mọi hoàn cảnh, bao gồm ở nhà, mặc dù đã có khuyến nghị trước đây của Ủy ban (CRC/C/15/Add.200, năm 2003, điểm e Khoản 34).

 

46. Ủy ban khuyến nghị Việt Nam cần sửa đổi luật pháp trong nước, bao gồm việc dự kiến sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 để đảm bảo việc nghiêm cấm tất cả các hình thức trừng phạt thân thể trong mọi hoàn cảnh dựa trên Bản nhận xét số 8 năm 2006 của Ủy ban về quyền trẻ em được bảo vệ khỏi trừng phạt thân thể và các hình thức trừng phạt tàn nhẫn, gây mất phẩm giá và Bản nhận xét số 13 năm 2011 về quyền trẻ em được bảo vệ khỏi mọi hành vi bạo lực. Ủy ban khuyến nghị thêm rằng Việt Nam cần nâng cao hiểu biết cho cha mẹ và cộng đồng về ảnh hưởng tiêu cực của trừng phạt thân thể tới sức khỏe của trẻ em và những biện pháp kỷ luật thay thế khác phù hợp với quyền trẻ em thông qua việc thực hiện hiệu quả Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 - 2015.

 

D.   Môi trường gia đình và chăm sóc thay thế (Điều 5, 18 (Khoản 1 - 2), 9 -11, 19 - 21, 25, 27 (Khoản 4) và 39 của Công ước)

Trẻ em không được sống trong môi trường gia đình

47. Ủy ban quan ngại việc thiếu thông tin đáng tin cậy về trẻ em không được sống trong môi trường gia đình hay trẻ em lang thang, trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi hoặc trẻ di cư, bao gồm thông tin cá nhân của trẻ em trong những hoàn cảnh đó, các biện pháp để hạn chế số lượng trẻ như vậy và nỗ lực cải thiện tình hình của trẻ nhằm đưa trẻ về với gia đình.

 

48. Ủy ban khuyến nghị Việt Nam cần:

(a) Tiến hành một cuộc điều tra toàn diện về tất cả trẻ không sống trong môi trường gia đình và lập danh sách đăng ký cấp quốc gia về những trẻ em đó;

(b) Đưa nội dung về trẻ em không được sống trong gia đình vào Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 - 2015;

(c)             Với sự tham gia tích cực của trẻ em, xây dựng và thực hiện chính sách toàn diện, giải quyết những nguyên nhân căn bản nhằm phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng trẻ em không được sống trong môi trường gia đình;

(d) Xây dựng chương trình hỗ trợ phát triển cho trẻ trong những hoàn cảnh như vậy bằng các dịch vụ thỏa đáng mà trẻ dễ tiếp cận;

(e)  Hỗ trợ các chương trình đoàn tụ gia đình nếu phù hợp với lợi ích tốt nhất của trẻ hoặc các dịch vụ chăm sóc thay thế dựa vào cộng đồng.

 

Chăm sóc thay thế

49. Ủy ban hoan nghênh tiến bộ đạt được trong việc giảm dịch vụ chăm sóc tại cơ sở tập trung với trẻ không được sống trong môi trường gia đình, bao gồm xây dựng các chính sách trợ giúp xã hội cụ thể. Tuy nhiên, Ủy ban quan ngại về việc đưa hàng loạt trẻ vào các cơ sở chăm sóc tập trung, đặc biệt là trẻ khuyết tật, trẻ nhiễm HIV, trẻ mồ côi cha, mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, trẻ bị bỏ rơi và trẻ được sinh ra ngoài ý muốn. Ủy ban cũng quan ngại về những dữ liệu không đáng tin cậy liên quan đến tỷ lệ trẻ em vào cơ sở chăm sóc tập trung ở Việt Nam. Mặc dù ghi nhận việc Việt Nam nâng cao Tiêu chuẩn tối thiểu quốc gia về chăm sóc và điều kiện nhà ở cho trẻ em, Ủy ban còn rất quan ngại về việc các trung tâm chăm sóc trẻ em không tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc của Công ước; những báo cáo về xâm hại thân thể và bóc lột tình dục đối với trẻ em trong các cơ sở chăm sóc tập trung và thời gian dài bị đưa vào các cơ sở chăm sóc tập trung là khi trẻ không được sống trong môi trường gia đình.

 

50. Ủy ban khuyến nghị Việt Nam cần:

(a) Xây dựng một chiến lược nhằm hạn chế việc đưa trẻ vào các cơ sở chăm sóc tập trung với khung thời gian, ngân sách rõ ràng, bao gồm việc đưa trẻ về đoàn tụ với gia đình, cân nhắc đến lợi ích tốt nhất và quan điểm của trẻ ở mức tối đa có thể được;

(b) Đảm bảo rằng tất cả cơ sở chăm sóc tập trung cho trẻ em phải có nguồn tài chính đảm bảo, được trang bị đủ nguồn nhân lực và kỹ thuật, được đăng ký và chính thức được giao làm công tác chăm sóc thay thế, đảm bảo các trung tâm đó nghiêm túc tuân thủ theo Tiêu chuẩn tối thiểu quốc gia về chăm sóc;

(c)  Xây dựng khung hướng dẫn rõ ràng để đảm bảo rằng các quyền trẻ em được tôn trọng thông qua toàn bộ quá trình sắp xếp trẻ vào các trung tâm chăm sóc thay thế và đảm bảo kiểm tra thường kỳ có hệ thống về chất lượng chăm sóc và tập huấn thường xuyên cho các cán bộ chuyên môn có liên quan, kể cả về quyền trẻ em, sau khi đã cân nhắc Hướng dẫn của Liên hợp quốc về Chăm sóc thay thế cho trẻ (Nghị quyết số 64/142 của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 18/12/2009, phụ lục);

(d) Xây dựng các chính sách và chương trình chăm sóc thay thế cho trẻ em dựa vào cộng đồng hướng đến việc giảm số lượng trẻ em bị đưa vào các cơ sở chăm sóc tập trung;

(e) Thiết lập cơ chế cho hoạt động khiếu nại, điều tra, khởi tố về xâm hại trẻ em trong các cơ sở chăm sóc thay thế và đảm bảo rằng nạn nhân bị xâm hại phải được tiếp cận với các thủ tục khiếu nại, được tư vấn về luật pháp, chăm sóc y tế và trợ giúp phục hồi phù hợp.    

 

Nuôi con nuôi

51. Ủy ban hoan nghênh việc thông qua Luật Nuôi con nuôi năm 2010 phù hợp với những nguyên tắc chính của Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, cũng như việc thành lập Cục Con nuôi theo Quyết định số 337/2003/QĐ-BTP năm 2003. Ủy ban ghi nhận thêm trong báo cáo của Việt Nam rằng việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài được xem là biện pháp cuối cùng sau khi đã xem xét hết các lựa chọn khác trong nước và thông tin do Việt Nam cung cấp trong buổi đối thoại về việc giảm tỷ lệ nhận con nuôi trong năm 2011. Nhằm phát huy tiến bộ này, Ủy ban khuyến nghị Việt Nam:

(a)              Tăng cường thực hiện Luật Nuôi con nuôi và phân bổ đủ nguồn lực để thi hành hiệu quả và củng cố thẩm quyền của Cục Con nuôi nhằm giám sát có hiệu quả việc cho trẻ em làm con nuôi của người nước ngoài, cung cấp đủ nguồn nhân lực, kỹ thuật cho Cục này;

(b)  Theo khoản (d) Điều 21 của Công ước về quyền trẻ em, cần đảm bảo giám sát có hệ thống và hiệu quả tất cả các cơ sở bảo trợ xã hội tư nhân liên quan đến việc cho, nhận nuôi con nuôi, xem xét các lựa chọn để hạn chế hơn nữa số lượng các cơ sở cho, nhận con nuôi tư nhân, bảo đảm rằng quá trình cho, nhận con nuôi không mang lại lợi ích tài chính cho bất kỳ bên nào;

(c) Tiếp tục thúc đẩy việc nhận nuôi con nuôi trong nước cho trẻ không được sống trong môi trường gia đình.

 

Bạo lực với trẻ gồm hành vi xâm hại và sao nhãng trẻ em

52. Mặc dù ghi nhận rằng luật pháp quốc gia có nhiều quy định khác nhau về bạo lực với trẻ em và nghiêm cấm xâm hại trẻ em, Ủy ban tiếp tục quan ngại việc còn thiếu quy định các hành vi xâm hại, sao nhãng trẻ em trong luật quốc gia như định nghĩa trong Điều 19 của Công ước. Ủy ban quan ngại về tình trạng phổ biến bạo lực và xâm hại trẻ em, đặc biệt là với các bé gái; việc thiếu các biện pháp, cơ chế và nguồn lực cần thiết để ngăn chặn, đấu tranh với bạo lực trong gia đình, bao gồm xâm hại tình dục và thân thể, sao nhãng trẻ em;  thiếu quy trình báo cáo thân thiện với trẻ em; việc tiếp cận các dịch vụ cho trẻ em bị xâm hại còn hạn chế và tình trạng thiếu dữ liệu như đã nêu trên.

 

53. Trên cơ sở nhận xét số 13 năm 2011 của Ủy ban về quyền trẻ được bảo vệ khỏi các hình thức bạo lực, Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần:

(a) Sửa đổi pháp luật trong nước quy định về các hình thức xâm hại trẻ em cho phù hợp với Điều 19 của Công ước, thúc đẩy sửa đổi luật pháp, đặc biệt cho người thực thi pháp luật, cán bộ tư pháp và các chuyên gia làm việc với trẻ em và vì trẻ em;

(b) Tăng cường hệ thống quốc gia về tiếp nhận, giám sát và điều tra khiếu nại về xâm hại, sao nhãng trẻ em theo cách nhạy cảm với trẻ;

(c)  Ưu tiên việc xóa bỏ tất cả các hình thức bạo lực với trẻ em, bao gồm bảo đảm thực hiện các khuyến nghị của Liên hợp quốc trong Nghiên cứu về bạo lực với trẻ em (A/61/299), cần xét đến kết quả và khuyến nghị của Hội nghị tư vấn khu vực Nam Á (được tổ chức ở Islamabad từ 19 đến 20 tháng 5 năm 2005) và quan tâm đặc biệt đến vấn đề giới;

(d) Cung cấp thông tin liên quan đến việc thực hiện khuyến nghị trong nghiên cứu trên của Việt Nam trong bản báo cáo định kỳ tiếp theo, đặc biệt là những khuyến nghị của Đặc pháp viên của Tổng thư ký Liên hợp quốc về bạo lực với trẻ em, bao gồm: 

(i)      Xây dựng chiến lược quốc gia toàn diện nhằm ngăn chặn và xóa bỏ mọi hình thức bạo lực với trẻ em;

(ii)    Ban hành quy định nghiêm cấm mọi hình thức bạo lực với trẻ em trong mọi hoàn cảnh;

(iii)   Củng cố hệ thống thu thập phân tích, phổ biến dữ liệu quốc gia và chương trình nghiên cứu về bạo lực với trẻ em;

(e) Đảm bảo rằng các biện pháp hành chính thể hiện vai trò của Chính phủ trong việc lập các chính sách, chương trình, giám sát và hệ thống giám sát từ xa để bảo vệ trẻ khỏi các hình thức bạo lực;

(f)   Hợp tác với  Đặc phái viên của Tổng thư ký Liên hợp quốc về bạo lực với trẻ em và tìm kiếm trợ giúp kỹ thuật từ Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Cao ủy nhân quyền của Liên hợp quốc (OHCHR), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR), Cơ quan phòng, chống ma túy và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC) và các tổ chức phi chính phủ.

 

E.    Trẻ khuyết tật, chăm sóc y tế và phúc lợi cơ bản (Điều 6, 18 (khoản 3), 23, 24, 26, 27 (khoản 1-3) và 33 của Công ước)

Trẻ em khuyết tật

54. Ủy ban ghi nhận việc Việt Nam dự kiến thông qua Công ước về quyền của người khuyết tật. Tuy nhiên, Ủy ban rất quan ngại về sự thiệt thòi của trẻ khuyết tật ở mức đáng báo động liên quan đến quyền giáo dục, khi có tới 52% trẻ khuyết tật không được đi học và đa số chưa tốt nghiệp tiểu học. Ủy ban cũng quan ngại về việc thiếu giáo viên có kinh nghiệm dạy trẻ học muộn hoặc chậm phát triển và việc thiếu thiết bị, tài liệu dạy học, cũng như sự chênh lệch vùng miền trong bố trí giáo viên chuyên biệt ở các trường học. Đáng lo ngại hơn, những rào cản ngăn trẻ khuyết tật thực hiện các quyền của mình được cho là do khuyết tật chứ không phải là vấn đề phát sinh từ cơ cấu kinh tế - xã hội hiện đang cản trở sự hòa nhập xã hội của các em. Điều này cũng dẫn đến tỉ lệ nhiều trẻ khuyết tật bị đưa vào các cơ sở chăm sóc tập trung.

 

55. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần:

(a) Sớm phê chuẩn Công ước về quyền người khuyết tật để tạo sự bảo vệ pháp lý cho trẻ khuyết tật;

(b) Rà soát các chính sách, chương trình hiện hành để tăng cường cách tiếp cận dựa trên quyền liên quan đến trẻ khuyết tật, thực hiện có hiệu quả giáo dục hòa nhập và chính sách miễn học phí để tạo điều kiện cho trẻ khuyết tật có cơ hội đến trường;

(c)  Bố trí đủ số lượng giáo viên có kỹ năng về giáo dục hòa nhập đến các trường học, đảm bảo tất cả trẻ khuyết tật đều được tiếp cận giáo dục hòa nhập có chất lượng cao, tập trung chủ yếu vào trẻ khuyết tật sống ở vùng nông thôn;

(d) Nâng cao nhận thức cộng đồng, bao gồm sự tham gia của trẻ khuyết tật vào các can thiệp thay đổi xã hội và nâng cao nhận thức để giải quyết tình trạng kì thị, phân biệt đối xử ngày càng gia tăng. Ngoài ra, cần giảm tỷ lệ trẻ khuyết tật bị đưa vào các cơ sở chăm sóc tập trung và tìm các giải pháp chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng;

(e) Xem xét Bản nhận xét số 9 của Ủy ban về quyền trẻ em khuyết tật trên khía cạnh này.

 

Y tế và các dịch vụ y tế

56. Ủy ban đánh giá cao tiến bộ trong các chỉ số y tế ở Việt Nam, chẳng hạn như việc giảm tỉ lệ tử vong của phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh, trẻ dưới 5 tuổi và tăng tuổi thọ trung bình. Tuy nhiên, Ủy ban hết sức quan ngại về việc chưa có tiến bộ trong một số lĩnh vực quan trọng liên quan đến sự sống còn và phát triển của trẻ em, cụ thể như sau:

(a)   Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi, đặc biệt ở mức cao hơn nhiều tại vùng nông thôn và trong nhóm trẻ em dân tộc ít người;

(b) Tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao ở nông thôn và trong nhóm dân tộc ít người là do thiếu dịch vụ và cơ sở y tế chất lượng;

(c)  Tỉ lệ nuôi con bằng sữa mẹ còn rất thấp, chỉ đạt 19%, cùng với sự chênh lệch giữa các vùng miền và nhận thức, cách thực hành về dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ của cha mẹ còn thấp;

(d) Sự chênh lệch tỉ lệ tiêm phòng giữa các vùng miền và các dân tộc.

 

57. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần có những bước đi kịp thời để đẩy mạnh các tiêu chuẩn thông thường đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho tất cả trẻ em ở mọi vùng miền:

(a) Xây dựng các chiến lược dinh dưỡng, chính sách, luật pháp về thực hành dinh dưỡng tốt cho trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh với mục đích giảm chênh lệch vùng miền về tỷ lệ suy dinh dưỡng cấp tính và mãn tính;

(b) Tăng cường nguồn lực sẵn có ở các trung tâm y tế huyện và trạm y tế xã, đảm bảo rằng các cơ sở y tế này có đủ nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, đặc biệt liên quan đến chăm sóc sức khỏe phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh và trẻ trước tuổi đi học;

(c) Tiến hành ngay các biện pháp nâng cao tỷ lệ bà mẹ thực hành nuôi con bằng sữa mẹ liên tục trong 6 tháng đầu, thông qua việc nâng cao nhận thức, bao gồm các chiến dịch, thông tin, tập huấn cho các nhân viên chính phủ, đào tạo nhân viên trong khoa sản, giáo dục cho cha mẹ; tăng cường giám sát các cơ chế thị trường hiện hành liên quan đến thị trường sản phẩm sữa thay thế, đặc biệt thông qua việc sửa đổi Nghị định số 21/2006/NĐ-CP về việc kinh doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ em và đảm bảo có các biện pháp xử lý những người vi phạm Nghị định này, đặc biệt là những người quảng cáo sữa công thức và cung cấp hàng dùng thử miễn phí cho các bà mẹ;

(d) Tiến hành các biện pháp, bao gồm các chiến dịch nâng cao nhận thức, phát triển hệ thống phân phối dịch vụ, tăng tỉ lệ tiêm phòng trẻ sơ sinh và trẻ trước tuổi đi học, quan tâm đặc biệt tới các vùng miền về mặt địa lý và dân tộc.

 

Sức khỏe người chưa thành niên

58. Ủy ban quan ngại việc thiếu thông tin về sức khỏe người chưa thành niên cũng như theo báo cáo, tỉ lệ nạo phá thai của thanh thiếu niên tăng cao. Ủy ban cũng quan ngại về sự tiếp cận còn hạn chế của người chưa thành niên tới các biện pháp tránh thai, dịch vụ trợ giúp và tham vấn về sức khỏe sinh sản.

 

59. Ủy ban thúc giục Việt Nam thu thập dữ liệu về sức khỏe người chưa thành niên và báo cáo cho Ủy ban trong báo cáo định kỳ tiếp theo. Liên quan đến Bản nhận xét số 4 năm 2003 về sức khỏe người chưa thành niên, trên cơ sở Công ước, Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần nâng cao nhận thức và cung cấp hướng dẫn tiếp cận các dịch vụ cho người chưa thành niên về sức khỏe sinh sản và giới tính, giải quyết tình trạng mang thai, nạo phá thai ngày càng tăng ở thanh thiếu niên, giúp người chưa thành niên dễ dàng tiếp cận với các biện pháp tránh thai cũng như các dịch vụ hỗ trợ và tham vấn chăm sóc sức khỏe sinh sản có chất lượng.

 

HIV/AIDS

60. Ủy ban đánh giá cao tiến bộ đạt được trong việc phòng, chống HIV/AIDS, tuy nhiên Ủy ban còn quan ngại về hiệu lực của các luật liên quan đến HIV/AIDS, tình trạng trẻ nhiễm HIV/AIDS bị kỳ thị, dễ bị đưa vào các cơ sở xã hội và có xu hướng bỏ học sớm hơn. Ủy ban quan ngại hơn nữa về thông tin thiếu tin cậy liên quan đến tỷ lệ người nhiễm HIV ở Việt Nam dẫn đến việc các chính sách và cơ chế phòng, chống HIV/AIDS vẫn còn rời rạc.

 

61. Theo Bản nhận xét số 3 năm 2003 về HIV/AIDS và quyền trẻ em, Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần nghiên cứu Hướng dẫn về HIV/AIDS và nhân quyền (E/CN.4/1997/37, phụ lục I):

(a) Tiến hành mọi biện pháp để đảm bảo việc thi hành có hiệu quả pháp luật liên quan đến HIV/AIDS, bao gồm việc tập huấn cho các cán bộ tư pháp, giáo viên, chuyên gia làm việc với trẻ em, đảm bảo rằng trẻ nhiễm HIV/ AIDS không bỏ học và được giáo dục hòa nhập;

(b) Phát động các chương trình nâng cao nhận thức, bao gồm các phong trào chống kỳ thị với trẻ nhiễm HIV/AIDS, tạo điều kiện cho trẻ nhiễm HIV/AIDS được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình, không bị chuyển tới các cơ sở xã hội, bằng việc xây dựng các dịch vụ trợ giúp và chăm sóc trẻ dựa vào cộng đồng;

(c)  Đưa nội dung về tôn trọng quyền trẻ em vào quá trình xây dựng và thực thi các chính sách, chiến lược phòng chống HIV/AIDS, đặc biệt nhấn mạnh bốn nguyên tắc chung của Công ước về không phân biệt đối xử (Điều 2), lợi ích tốt nhất cho trẻ (Điều 3), quyền sống còn (Điều 6) và tôn trọng ý kiến của trẻ (Điều 12), thực hiện có hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS tới năm 2010 và tầm nhìn tới năm 2020;

(d) Nâng cao chất lượng và phân loại số liệu y tế tổng hợp, bao gồm cả việc biên soạn, sử dụng nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu đáng tin cậy.

 

Ma túy và chất gây nghiện

62. Mặc dù ghi nhận thông tin do Việt Nam cung cấp trong buổi đối thoại về kế hoạch giới thiệu phác đồ điều trị dựa vào cộng đồng cho trẻ nghiện ma túy, Ủy ban hết sức quan ngại về:

(a)            Hệ thống giam giữ hành chính áp đặt cho trẻ nghiện ma túy;

(b) Các báo cáo về tình trạng trẻ bị ngược đãi trong các trung tâm cai nghiện ma túy và thiếu công tác thanh tra trong vấn đề này;

(c) Tình trạng trẻ em bị giam chung với người lớn trong các trung tâm cai nghiện.

 

 

63. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần:

(a) Thực hiện kế hoạch rà soát hệ thống giam giữ hành chính với trẻ nghiện ma túy và tìm các biện pháp thay cho việc tước đoạt quyền tự do của trẻ trong những hoàn cảnh như vậy, tập trung vào mô hình cai nghiện dựa vào cộng đồng. Mặt khác, cần đảm bảo cung cấp cho trẻ em các dịch vụ phục hồi chức năng và các chương trình tái hòa nhập cộng đồng;

(b)  Thiết lập một hệ thống giám sát các trung tâm cai nghiện ma túy hiệu quả, tiến hành thanh tra thường xuyên, điều tra nghiêm túc tất cả trường hợp xâm hại trẻ em trong các trung tâm này nhằm đưa thủ phạm ra trừng trị trước pháp luật và phục hồi cho các nạn nhân trẻ em;

(c) Đảm bảo rằng trẻ em được giam giữ cách biệt với người lớn trong mọi hoàn cảnh, đảm bảo có sẵn các phòng giam dành cho trẻ em.

 

 Mức sống

64. Mặc dù hoan nghênh những nỗ lực của Việt Nam về giảm nghèo đạt mức giảm 2% số hộ nghèo mỗi năm, ghi nhận rằng Việt Nam đã thoát khỏi nhóm các nước nghèo nhất và gia nhập nhóm các nước thu nhập trung bình thấp vào năm 2010, Ủy ban quan ngại về số lượng trẻ sống trong tình trạng nghèo đói ở Việt Nam còn cao, phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các dân tộc ít người và dân di cư. Thêm vào đó, trong khi Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh nông thôn vẫn đang được tiến hành, Ủy ban quan ngại về các hạn chế nghiêm trọng trong việc cung cấp nước uống an toàn, đặc biệt là ở nông thôn và các vùng dân tộc ít người, còn thiếu các thiết bị vệ sinh ở gia đình và nhà trường gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của trẻ, gây khó khăn cho việc khuyến khích trẻ đến trường.

 

65. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần:

(a) Tăng cường duy trì chương trình trợ cấp xã hội bằng tiền mặt (theo Nghị định 67 và Nghị định 13) cho các gia đình thu nhập thấp có trẻ em và bảo đảm rằng hỗ trợ đó được mở rộng đến các hộ gia đình nghèo, cận nghèo ở vùng dân tộc ít người, các gia đình có lao động không chính thức, gia đình di cư.

(b) Thông qua việc thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, tăng cường nỗ lực giảm nghèo ở các nhóm yếu thế, đặc biệt là dân tộc ít người và dân di cư, trong đó tập trung vào các nhu cầu và quyền của trẻ em. Nhằm đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần có các biện pháp thúc đẩy cơ hội bình đẳng cho mọi người, bao gồm cả trẻ em nói riêng, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế cho các dân tộc ít người, chú trọng giải quyết vấn đề việc làm, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, trong đó tập trung vào các dịch vụ dành cho trẻ em;

(c) Bảo đảm tham khảo ý kiến đầy đủ của các nhóm đối tượng hưởng lợi và thu hút họ tham gia các quyết định liên quan tới quyền, lợi ích của chính bản thân họ;

(d) Xây dựng, thực hiện tốt các chính sách tài chính và chương trình liên quan đến nước sạch, vệ sinh nông thôn, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa, bao gồm Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh nông thôn, bảo đảm rằng trẻ em trong độ tuổi đi học phải được tiếp cận với các điều kiện vệ sinh, phù hợp với khuyến nghị trước đó của Ủy ban (CRC/C/15/Add.200, 2003 khoản 42).

 

F.    Các hoạt động văn hóa, giải trí và giáo dục (Điều 28, 29 và 31 của Công ước)

Giáo dục đào tạo, bao gồm dạy nghề và đào tạo nghề

66. Ủy ban hoan nghênh việc thông qua Chiến lược Phát triển giáo dục 2001 - 2010 và Chương trình hành động quốc gia về giáo dục cho mọi người giai đoạn 2003 - 2015. Trong khi đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam thực hiện khuyến nghị trước đó (CRC/C/15/Add.200, 2003 khoản 48) về tăng phân bổ ngân sách, tăng tỷ lệ đến trường ở bậc tiểu học và trung học cơ sở; tăng cường hỗ trợ tài chính về giáo dục cho các nhóm yếu thế, đánh giá cao nỗ lực hợp tác của Việt Nam với UNICEF nhằm dạy song ngữ cho trẻ em dân tộc ít người, Ủy ban tiếp tục quan ngại đối với các vấn đề sau:

(a)  Thiếu các chương trình và cơ sở Nhà nước dành cho giáo dục mầm non.

(b) Mặc dù Hiến pháp quy định miễn học phí ở bậc giáo dục tiểu học nhưng các loại phí liên quan đến giáo dục trên thực tế vẫn đang bị áp đặt, gây ảnh hưởng đến những người nghèo nhất, hầu hết là trẻ em vùng dân tộc ít người và trẻ di cư;

(c) Vẫn còn sự khác biệt rõ rệt trong tiếp cận giáo dục giữa trẻ vùng dân tộc ít người và dân tộc Kinh;

(d) Vẫn còn tỉ lệ bỏ học cao ở bậc tiểu học và trung học cơ sở, đặc biệt là nhóm trẻ vùng dân tộc thiểu số, chủ yếu do thiếu khả năng tiếp cận, nghèo đói và rào cản ngôn ngữ;

(e) Tiếp cận hạn chế với chương trình giáo dục dựa trên tiếng mẹ đẻ cho các dân tộc ít người; thiếu giáo viên bản ngữ dân tộc ít người, thiếu các chương trình đào tạo phù hợp cho các giáo viên song ngữ, cũng như chất lượng sách giáo khoa dành cho trẻ dân tộc ít người còn kém, điều này cản trở quyền trẻ em thuộc các nhóm này được học và bảo tồn ngôn ngữ của mình;

(f)  Thiếu thông tin về giám sát trẻ học trong các trường dân tộc nội trú;

(g) Chất lượng giáo dục thấp và phương pháp giảng dạy chưa phù hợp dẫn đến hạn chế sự tham gia của trẻ, cũng như năng lực giáo viên còn yếu kém và thiếu thông tin về giáo dục nhân quyền, đặc biệt là quyền trẻ em trong các giáo trình giảng dạy.

 

 67. Ủy ban khuyến nghị Việt Nam xem xét Bản nhận xét chung số 1 về các mục tiêu của giáo dục (CRC/GC/2001/1):

(a) Xây dựng các chương trình phát triển giáo dục mầm non được phân bổ kinh phí đầy đủ, sử dụng phương pháp tiếp cận tổng hợp để nắm bắt tất cả nhu cầu của trẻ dưới 5 tuổi; nhanh chóng thông qua và thực hiện chương trình phổ cập giáo dục mẫu giáo cho trẻ em dưới 5 tuổi giai đoạn 2010 - 2015;

(b)  Bảo đảm giáo dục thực sự miễn phí cho mọi người, đặc biệt chú ý tới các nhóm trẻ dễ bị tổn thương, kể cả trẻ dân tộc ít người và trẻ di cư. Điều này đồng nghĩa với việc loại bỏ mọi chi phí gián tiếp và thực hiện các cơ chế hỗ trợ giáo dục cho trẻ em thuộc gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn;

(c) Như các khuyến nghị trước của Ủy ban (CRC/C/15/Add.200 năm 2003 khoản 48 (a)), tiến hành mọi biện pháp thích hợp để tăng khả năng tiếp cận giáo dục, đặc biệt là cho trẻ em gái và ở các vùng nông thôn, nhằm tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục bình đẳng cho mọi nhóm trẻ em, đảm bảo quyền được hưởng giáo dục có chất lượng cho mọi trẻ em;

(d) Thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi như chương trình cơ hội học tập thứ hai, dành cho trẻ em dân tộc ít người và trẻ em ở vùng nông thôn, nhằm giảm sự khác biệt về mặt địa lý cũng như dân tộc trong tỷ lệ bỏ học của học sinh dân tộc ít người;

(e) Tiếp tục thực hiện các chính sách với nguồn lực thỏa đáng nhằm hỗ trợ giảng dạy song ngữ cho các lớp học sinh dân tộc ít người, đảm bảo tiếng dân tộc ít người là ngôn ngữ giảng dạy chính ở trường mầm non, nhằm giúp trẻ em dân tộc ít người thành thạo cả hai ngôn ngữ, giúp các em có khả năng hòa nhập xã hội tốt hơn; tăng cường đào tạo và hướng dẫn cho giáo viên nói tiếng dân tộc ít người; tài trợ cho việc phát hành sách giáo khoa chất lượng cho trẻ em dân tộc ít người bằng cách mời các giáo viên địa phương tham gia biên soạn nội dung sách giáo khoa;

(f) Thiết lập hệ thống giám sát hiệu quả các trường dân tộc nội trú, tiến hành kiểm tra thường xuyên, điều tra các trường hợp xâm hại trẻ em;

(g) Đảm bảo chất lượng giảng dạy bằng cách trả lương hợp lý cho giáo viên. Tiến hành cải cách triệt để giáo trình và phương pháp giảng dạy, thu hút các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực giáo dục. Quyền con người, đặc biệt là quyền trẻ em cần được đưa vào chương trình giảng dạy;

(h)  Xem xét việc phê chuẩn Công ước của UNESCO về chống phân biệt đối xử trong giáo dục.

 

G. Các biện pháp bảo vệ đặc biệt (Điều 22, 30, 38, 39, 40, 37 (khoản (b)-(d)), 32-36 của Công ước)

Bóc lột kinh tế, đặc biệt là lao động trẻ em

68. Ủy ban hết sức quan ngại rằng lao động trẻ em vẫn còn phổ biến tại Việt Nam, đặc biệt trong khu vực không chính thức, độ tuổi tối thiểu của lao động trẻ em vẫn ở mức thấp (12 tuổi đối với các công việc nhẹ); phạm vi tiến hành thanh tra lao động còn hạn chế; các phạm nhân trẻ em tại trại cai nghiện đều phải làm việc và như vậy nghĩa là các em đã bị cưỡng bức lao động.

 

69. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần:

(a) Thực hiện ngay các biện pháp và phương pháp hiệu quả để xóa bỏ lao động trẻ em trong các điều kiện không được phép, như lao động ở độ tuổi còn nhỏ hoặc trong điều kiện lao động nguy hiểm;

(b) Thực hiện hiệu quả các biện pháp để loại bỏ các yếu tố kinh tế - xã hội là nguyên nhân sâu xa đẩy trẻ em vào lực lượng lao động; đặc biệt cần tăng tỷ lệ trẻ em đến trường và giảm số lượng trẻ em bỏ học để tránh nạn lao động trẻ em;

(c) Thực hiện các biện pháp cần thiết để hài hòa quy định trong nước với Công ước số 138, trong đó có việc sửa đổi, bổ sung Thông tư số 21/1999/TT-BLĐTBXH và quy định trẻ em từ 13 tuổi trở lên được làm các công việc nhẹ, tăng cường thi hành các điều luật lao động nhằm bảo vệ trẻ em, truy tố những người sử dụng lao động trẻ em cưỡng bức, quy định về việc bồi thường cũng như xử phạt;

(d)  Tăng cường thanh tra lao động để đảm bảo giám sát được tất cả các khía cạnh về môi trường lao động, kể cả việc sử dụng lao động trẻ em cưỡng bức trong các trung tâm cai nghiện ma túy và lao động trẻ em trong khu vực không chính thức;

(e) Thực hiện hiệu quả các biện pháp như thông qua việc sửa đổi quy định của Nghị định số 135/2004/NĐ-CP nhằm phòng ngừa và chấm dứt việc sử dụng lao động trẻ em cưỡng bức trong các trung tâm cai nghiện ma túy, phù hợp với Công ước số 182 của Tổ chức Lao động quốc tế về việc nghiêm cấm và hành động lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất;

(f) Tìm kiếm hỗ trợ kỹ thuật từ Chương trình quốc tế về xoá bỏ lao động trẻ em của ILO để giải quyết vấn đề này.

 

Bóc lột tình dục và mua bán người

70. Ủy ban hoan nghênh những quy định, biện pháp hành chính nhằm chống lại  bóc lột tình dục và mua bán trẻ em vì mục đích thương mại. Tuy nhiên, Ủy ban vẫn quan ngại về sự gia tăng tỷ lệ mại dâm trẻ em, bao gồm cả sự gia tăng số lượng các trường hợp mua bán trẻ em không chỉ cho mục đích mại dâm; số lượng trẻ em liên quan đến hoạt động mại dâm thương mại ngày càng tăng, chủ yếu là do nghèo đói. Ủy ban quan ngại hơn nữa về việc trẻ em bị bóc lột tình dục có thể bị cảnh sát đối xử như tội phạm, còn thiếu các quy trình báo cáo thân thiện với trẻ em và một số quy định trong Bộ luật Hình sự (bao gồm cả Điều 254-256 liên quan đến mại dâm trẻ em) chỉ coi đối tượng dưới 16 tuổi là trẻ em.

 

71. Ủy ban đặc biệt khuyến cáo Việt Nam cần:

(a) Nỗ lực, tăng cường chống lại nạn bóc lột tình dục và mua bán trẻ em bằng cách triển khai thực hiện triệt để Chương trình hành động phòng, chống mại dâm giai đoạn 2011 - 2015 và Chương trình hành động phòng, chống tội phạm mua bán người giai đoạn 2011 - 2015;

(b) Xây dựng, thực hiện chiến lược phòng, chống bóc lột và xâm hại tình dục ở trẻ em, tập trung vào nhóm đối tượng trẻ em dễ bị tổn thương như nhóm trẻ em lang thang và trẻ em trong các gia đình nghèo hoặc cận nghèo;

(c) Sửa đổi, phổ biến pháp luật hành chính và hình sự để đảm bảo rằng đối tượng trẻ em hoạt động mại dâm được coi là nạn nhân chứ không phải là tội phạm; xây dựng các quy trình báo cáo thân thiện với trẻ em, đảm bảo các nạn nhân trẻ em được biết và tiếp cận với các quy trình này; phát triển các chương trình phục hồi chức năng, tái hòa nhập cho trẻ em là nạn nhân bị bóc lột và mua bán tình dục, cũng như dịch vụ tham vấn bảo mật;

(d) Hoàn thiện việc điều chỉnh luật pháp quốc gia cho phù hợp với Nghị định thư không bắt buộc về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em như các hành vi phạm tội gây tổn hại cho người dưới 18 tuổi được nêu trong Điều 3 của Nghị định thư không bắt buộc, phù hợp với khuyến nghị của Ủy ban (CRC/C/OPSC/VNM/CO/1, năm 2006 khoản 11 (a));

(e) Xem xét việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung về ngăn chặn, trấn áp và trừng trị tội phạm mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.

 

Quản lý hành chính về tư pháp người chưa thành niên

72. Mặc dù có sự tiến bộ trong các lĩnh vực nhất định liên quan đến tư pháp người chưa thành niên, Ủy ban lấy làm tiếc rằng khuyến nghị trước đó (CRC/C/15/Add.200 năm 2003 khoản 54) đã không được Việt Nam thực thi đầy đủ và Ủy ban đặc biệt bày tỏ quan ngại về:

(a)       Việc thiếu một hệ thống toàn diện về tư pháp người chưa thành niên như thiếu một tòa án dành cho người chưa thành niên và các biện pháp hiện tại mới chỉ bao gồm nhóm trẻ em dưới 16 tuổi;

(b)      Số lượng tội phạm trẻ tuổi ngày càng tăng và hệ thống trừng phạt của Việt Nam đối với tội phạm đó;

(c)       Ít lựa chọn thay thế việc giam giữ trẻ em, không có chương trình phục hồi chức năng và tái hòa nhập.

 

73. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần xây dựng hệ thống tư pháp người chưa thành niên phù hợp với Công ước, đặc biệt là tại các Điều 37, 39 và 40, với các tiêu chuẩn khác có liên quan, bao gồm cả Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh), Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (Hướng dẫn Riyadh), Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo hộ người chưa thành niên khi không có người đại diện (Quy tắc Havana), Hướng dẫn hành động về trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự và Bản nhận xét chung số 10 năm 2007 của Ủy ban về quyền của trẻ em về hệ thống tư pháp người thành niên. Đặc biệt, Ủy ban thúc giục Việt Nam:

(a) Đẩy nhanh việc sửa đổi Bộ luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự và Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc và quy định của Công ước, nhất là đối với trẻ em dưới 18 tuổi trong hệ thống tư pháp người chưa thành niên;

(b) Thiết lập một tòa án chuyên biệt cho người chưa thành niên và các đơn vị cảnh sát chuyên biệt về bảo vệ trẻ em;

(c) Bố trí đầy đủ nguồn nhân lực, kỹ thuật, tài chính cho hệ thống tư pháp người chưa thành niên, chú trọng việc cải cách và các biện pháp thay thế khác cho việc tước quyền tự do, đảm bảo cung cấp các chương trình phục hồi chức năng và tái hòa nhập.

 

Trẻ em dân tộc ít người

74. Ủy ban thúc giục Việt Nam thực hiện hiệu quả tất cả các biện pháp  nhằm thu hẹp khoảng cách trong việc thụ hưởng các quyền giữa trẻ em thuộc nhóm dân tộc ít người và trẻ em thuộc nhóm dân tộc chiếm đa số trong tất cả các lĩnh vực được đề cập trong Công ước, đặc biệt chú ý đến tiêu chuẩn sức khỏe, đời sống và giáo dục theo khuyến nghị trong các nội dung nêu trên. Ủy ban tiếp tục thúc giục Việt Nam tăng cường nỗ lực thực hiện các khuyến nghị được nêu trong báo cáo của nhóm chuyên gia độc lập của Liên hợp quốc về vấn đề dân tộc ít người (A/HRC/16/45/Add.2), cũng như với bản báo cáo của Chuyên gia độc lập của Liên hợp quốc về vấn đề nhân quyền và nghèo đói cùng cực (A/HRC/17/34/Add.1), đặc biệt là với các khuyến nghị liên quan đến dân tộc ít người và phải báo cáo về tiến bộ đạt được trong báo cáo định kỳ tới gửi cho Ủy ban.

 

Khuyến nghị về Nghị định thư không bắt buộc về sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang (OPAC) năm 2006

75. Ủy ban tiếp tục quan ngại về nội dung trong Tuyên bố rằng "những người dưới 18 tuổi không được trực tiếp tham gia chiến tranh, trừ khi có nhu cầu cấp thiết về bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam dựa trên việc phê chuẩn OPAC. Ủy ban vẫn còn quan ngại rằng Việt Nam chưa phê chuẩn Quy chế Rome về Tòa án hình sự quốc tế năm 2002.

 

76. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam nên rút lại Tuyên bố nêu trên và nhắc nhở Việt Nam về Điều 1 của OPAC trong đó nêu rằng những người dưới 18 tuổi không nên "tham gia trực tiếp vào chiến sự". Ủy ban cũng khuyến cáo rằng Việt Nam xem xét phê chuẩn Quy chế Rome năm 2002. Ủy ban yêu cầu Việt Nam cung cấp thông tin về việc thực hiện và theo dõi các khuyến nghị về OPAC (CRC/C/OPAC/VNM/CO/1, năm 2006) trong báo cáo định kỳ tiếp theo gửi cho Ủy ban.

 

Khuyến nghị về Nghị định thư không bắt buộc về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (OPSC) năm 2006

77. Ủy ban quan ngại việc còn thiếu thông tin theo dõi về thực hiện các khuyến nghị của Ủy ban (CRC/C/OPSC/VNM/CO/1, năm 2006).

 

78. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần giám sát và thông tin về việc thực hiện OPSC trong báo cáo định kỳ tiếp theo gửi Ủy ban. Ủy ban tiếp tục khuyến nghị Việt Nam bảo đảm thực thi đúng với các khuyến nghị trước đây theo OPSC (CRC/C/OPSC/VNM/CO/1, năm 2006), đặc biệt đối với Bộ luật Hình sự cần bao gồm đầy đủ thông tin về các loại tội phạm được nêu trong Nghị định thư, quyền xét xử và việc dẫn độ ngoài phạm vi lãnh thổ.

 

H. Phê chuẩn các điều ước quốc tế về nhân quyền

79. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần phê chuẩn các công ước nhân quyền cơ bản của Liên hợp quốc và Nghị định thư không bắt buộc mà Việt Nam chưa phải là thành viên, đặc biệt, Nghị định thư về quy trình thông tin, khiếu nại của Công ước về quyền trẻ em, Công ước quốc tế về bảo vệ mọi người khỏi bị mất tích, Công ước về quyền của người khuyết tật, Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của mọi lao động di cư và các thành viên gia đình của họ, Công ước chống tra tấn và các hình thức tàn bạo, vô nhân đạo gây mất phẩm giá, Công ước năm 1951 liên quan đến tình trạng của người tị nạn và Nghị định thư năm 1967, Công ước năm 1954 liên quan đến tình trạng của người không quốc tịch và Công ước năm 1961 về việc giảm tình trạng không có quốc tịch. Ngoài ra, Việt Nam cần phê chuẩn Công ước số 189 năm 2011 của Tổ chức Lao động quốc tế về việc làm phù hợp cho người lao động trong nước.

 

I. Hợp tác với các tổ chức trong khu vực và quốc tế

80. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam nên hợp tác với Ủy ban Nhân quyền, Ủy ban về Phụ nữ và trẻ em của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nhằm tiến tới thực thi đầy đủ Công ước và các công cụ bảo vệ nhân quyền khác tại Việt Nam và các quốc gia thành viên khác.

 

J. Theo dõi và phổ biến

81. Ủy ban khuyến nghị rằng Việt Nam cần thực thi tất cả các biện pháp thích hợp để đảm bảo các khuyến nghị hiện nay được thực hiện đầy đủ, bao gồm cả việc chuyển các khuyến nghị tới Quốc hội, các Bộ có liên quan, Toà án nhân dân tối cao và chính quyền địa phương để xem xét và hành động thích hợp hơn.

 

82. Ủy ban khuyến nghị thêm rằng báo cáo ghép định kỳ lần thứ ba và thứ bốn cùng văn bản trả lời của Chính phủ, các khuyến nghị liên quan đến kết luận giám sát này cần được phổ biến rộng rãi bằng ngôn ngữ của Việt Nam, bao gồm nhưng không phải giới hạn, thông qua Internet, các tổ chức xã hội dân sự ở cộng đồng, phương tiện truyền thông, các tổ chức thanh niên, các cán bộ chuyên môn và trẻ em, nhằm tạo ra sự trao đổi nhận thức về Công ước, các Nghị định thư, từ đó thúc đẩy việc thực hiện và giám sát.

 

Báo cáo tiếp theo:

83. Ủy ban đề nghị Việt Nam xem xét việc đệ trình bản báo cáo ghép định kỳ lần thứ năm và thứ sáu trước ngày 01 tháng 9 năm 2017, trong đó có các thông tin về việc thực hiện các khuyến nghị hiện thời của Ủy ban. Ủy ban khuyến nghị Việt Nam cần quan tâm vào các hướng dẫn hài hòa về quy trình báo cáo liên quan đến văn kiện quốc tế cụ thể đã được thông qua ngày 01 tháng 10 năm 2010 (CRC/C/58/Rev.2 và Corr 1) và lưu ý Việt Nam rằng các báo cáo sau này cần phù hợp với hướng dẫn và không dài quá 60 trang. Ủy ban đề nghị Việt Nam gửi báo cáo theo đúng hướng dẫn. Trong trường hợp báo cáo vượt quá giới hạn về số trang, Việt Nam sẽ phải xem xét và gửi lại báo cáo phù hợp với hướng dẫn nêu trên. Ủy ban lưu ý rằng nếu Việt Nam không thể rà soát và nộp lại bản báo cáo cho phù hợp với hướng dẫn, Ủy ban không thể đảm bảo việc biên dịch báo cáo để phục vụ cho công tác kiểm tra của các cơ quan của Công ước.

 

84. Ủy ban cũng đề nghị Việt Nam xem xét, đệ trình các tài liệu cập nhật chính phù hợp với yêu cầu của tài liệu cơ bản chung trong các hướng dẫn hài hòa về quy trình báo cáo đã được thông qua tại cuộc họp liên ủy ban lần thứ năm của các cơ quan của Công ước về quyền con người vào tháng 6 năm 2006 (HRI/MC/2006/3).


 


Các tin khác: