QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN LÀ GÌ? (2)
Phần 2 này giới thiệu một số khía cạnh luật pháp và thực tế thực thi quyền tiếp cận thông tin của người dân tại Việt Nam.




1.     Quyền tiếp cận thông tin được nhắc đến trong Hiến pháp Việt Nam từ bao giờ?

 

Các chính sách, luật và Hiến pháp của Việt Nam trước đây chỉ quan tâm chủ yếu đến quyền của người dân được phổ biến, được tuyên truyền các đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, đến việc công khai, công bố các văn bản của các cơ quan nhà nước. Quyền thông tin là quyền rất mới ở Việt Nam, chỉ đến năm 1992, lần đầu tiên Hiến pháp đã ghi nhận “quyền được thông tin” của công dân (Điều 69, Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001). Tuy nhiên, đó vẫn là tinh thần cũ, người dân là đối tượng thụ động tiếp nhận thông tin từ các cơ quan nhà nước. Đến gần đây, “quyền tiếp cận thông tin” mới được ghi nhận một cách đầy đủ hơn tại Điều 25 của Hiến pháp năm 2013.

Tuy nhiên, để hiện thực hóa được quyền tiếp cận thông tin trong thực tế cần các đạo luật cụ thể. Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có đạo luật riêng cụ thể hóa quyền tiếp cận thông tin, dù quyền này đã được bảo đảm phần nào trong nhiều văn bản liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau (như về dân chủ cơ sở, báo chí, xuất bản, kiểm toán, chống tham nhũng…).


2.      Nhà nước Việt Nam đã đưa ra những cam kết quốc tế nào liên quan đến bảo vệ quyền tiếp cận thông tin?

 

Việt Nam đã trở thành thành viên của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1996) từ năm 1982, và thành viên của Công ước Liên Hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC, 2003) từ năm 2009. Cả hai công ước này đều có những quy định về các nghĩa vụ của nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin. Cụ thể, Điều 19 của ICCPR quy định về quyền tự do biểu đạt, bao gồm quyền tìm kiếm, phổ biến thông tin của mọi cá nhân. Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin của người dân là nghĩa vụ của nhà nước Việt Nam theo quy định của điều khoản này. Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng quy định về nghĩa vụ báo cáo công khai (Điều 10) đòi hỏi mỗi quốc gia thành viên sẽ tiến hành các biện pháp cần thiết để tăng cường minh bạch trong quản lý hành chính công, kể cả về tổ chức, quá trình thực hiện và ra quyết định. Cạnh đó, Công ước đòi hỏi quốc gia tiến hành các biện pháp thích hợp nhằm thúc đẩy sự tham gia chủ động của các cá nhân và tổ chức ngoài khu vực công vào công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng, thông qua các biện pháp khác nhau, bao gồm việc đảm bảo cho công chúng được tiếp cận thông tin một cách hiệu quả (điểm a, khoản 2, Điều 13).

Trong tiến trình Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc gần đây (năm 2014), Việt Nam cũng đã chấp thuận nhiều khuyến nghị liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do biểu đạt, tự do thông tin, tự do internet phù hợp với các chuẩn mực quốc tế từ các quốc gia Italy, Nhật Bản, Bỉ  Hà Lan…


3.      Pháp luật hiện hành của Việt Nam quy định về quyền tiếp cận thông tin như thế nào?

Ở Việt Nam, quyền tiếp cận thông tin hiện nay được thể hiện rải rác trong nhiều văn bản pháp luật, bao gồm: Luật Phòng chống tham nhũng (2005, sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012), Luật Báo chí (1989, sửa đổi, bổ sung năm 1999), Luật Xuất bản (2004), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (2004), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (2004, sửa đổi, bổ sung năm 2008, 2012), Luật kiểm toán Nhà nước (2005), Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí (2005, sửa đổi, bổ sung năm 2013), Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (2007)…Cạnh đó, Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước (2000) và các văn bản liên quan đã quy định về phạm vi bí mật nhà nước (phân loại thành ba mức độ tuyệt mật, tối mật và mật), nội dung, trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật, trách nhiệm của các chủ thể có liên quan…

Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiếp cận thông tin, một đạo luật riêng về vấn đề này (Luật tiếp cận thông tin) đã được nhà nước giao cho Bộ Tư pháp chủ trì  soạn thảo từ năm 2006, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa được trình ra Quốc Hội. Quá trình soạn thảo đạo luật này kéo dài do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là những khó khăn trong việc xác định phạm vi thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ được coi là “ngoại lệ” không công khai với công chúng. 


4.      Nguyên tắc công khai, minh bạch của các cơ quan nhà nước đã được quy định trong pháp luật Việt Nam chưa?

Điều 11 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2012) quy định về nguyên tắc và nội dung công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Theo đó, chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được công khai, minh bạch, bảo đảm công bằng, dân chủ. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ.

 

5.     Đã có những hình thức công khai, cung cấp thông tin nào đã được quy định trong pháp luật Việt Nam?

Khoản 1 Điều 12 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2012) quy định các hình thức công khai bao gồm:

a) Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị;

b) Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị;

c) Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan;

d) Phát hành ấn phẩm;

đ) Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;

e) Đưa lên trang thông tin điện tử;

g) Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Như vậy, những hình thức công khai trên bao gồm cả việc cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân (quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 12). Điều 31 và 32 của Luật phòng, chống tham nhũng quy định chi tiết hơn về nội dung này (Xem thêm 2 câu hỏi- đáp tiếp theo).

Tương tự, Điều 6 Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn (2007) cũng quy định Chính quyền cấp xã cần áp dụng các hình thức công khai gồm: a) Niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã; b) Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã; c) Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân. Cạnh đó, chính quyền cấp xã còn phải thực hiện việc cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 32 của Luật phòng, chống tham nhũng.


6.     Ủy ban nhân dân cấp xã phải công khai cho người dân biết những thông tin gì?

Theo Điều 5 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (2007), Ủy ban nhân dân cấp xã phải công khai những nội dung sau:

1. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ph­ương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã.

2. Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.

3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân.

4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.

5. Chủ trư­ơng, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo đư­ợc vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.

6. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.

7. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.

8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.

9. Đối tư­ợng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do chính quyền cấp xã trực tiếp thu.

10. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.

11. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.



 7.     Quyền tiếp cận thông tin về đất đai được pháp luật Việt Nam bảo vệ như thế nào?

Luật Phòng, chống tham nhũng (2005) đã sớm có quy định một cách khái quát về việc công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng đất (Điều 21). Gần đây, Luật Đất đai (năm 2013, có hiệu lực từ ngày 1/7/2014) đã quan tâm cụ thể hóa việc cung cấp thông tin về đất đai cho người dân. Luật này có quy định chung về trách nhiệm của nhà nước trong việc xây dựng, cung cấp thông tin đất đai (Điều 28). Theo đó, các cơ quan nhà nước phải: xây dựng và quản lý hệ thống thông tin đất đai vàbảo đảm quyền tiếp cận của tổ chức, cá nhân đối với hệ thống thông tin đất đai; công bố kịp thời, công khai thông tin thuộc hệ thống thông tin đất đai cho tổ chức, cá nhân, trừ những thông tin thuộc bí mật theo quy định của pháp luật; thông báo quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai cho tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp; tạo điều kiện, cung cấp thông tin về đất đai cho tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.

Liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cơ quan tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất bằng các hình thức như: công khai thông tin trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân các cấp, tại trụ sở các cơ quan đó, và tổ chức hội nghị, lấy ý kiến trực tiếp (Điều 43). Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt phải được công bố công khai tại trụ sở cơ quan và trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân các cấp (Điều 48).

 


8.       Những thông tin nào được quy định tại Việt Nam là hạn chế cung cấp cho công chúng?

Tại Việt Nam, thông tin bị hạn chế cung cấp cho công chúng gồm một số loại chủ yếu sau:

-         Các thông tin được coi là “bí mật nhà nước”, hiện được quy định tại Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước (năm 2000) và các văn bản hướng dẫn.

-         Các thông tin thuộc về bí mật đời tư, được bảo vệ bởi luật dân sự.

-         Các thông tin về sở hữu công nghiệp được bảo vệ bởi các quy định của Luật sở hữu trí tuệ.


9.       Theo pháp luật Việt Nam, bí mật nhà nước là gì?


Theo Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước (năm 2000) thì: Bí mật nhà nước là những tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 1). Căn cứ vào tính chất quan trọng của nội dung tin, mức độ nguy hại nếu bị tiết lộ, các tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước được chia làm ba mức độ Tuyệt mật, Tối mật và Mật (Điều 4).


 

10.  Khi yêu cầu về tiếp cận thông tin không được các cơ quan nhà nước đáp ứng, công dân có thể khiếu nại, khởi kiện như thế nào?


Khi cơ quan hành chính không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ các thông tin mà luật đã quy định, công dân có thể căn cứ vào Luật Khiếu nại (năm 2011) để khiếu nại. Cụ thể, khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính (hành vi của cơ quan hành chính, của người có thẩm quyền thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật) là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại (công dân thực hiện quyền khiếu nại) khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.


11.  Quyền tiếp cận thông tin được bảo đảm như thế nào trong thời gian qua ở Việt Nam?

Cùng với Hiến pháp (năm 1992) xác định quyền “được thông tin theo quy định của pháp luật” (Điều 69), quyền tiếp cận thông tin của người dân đã được pháp luật ghi nhận trong nhiều lĩnh vực cụ thể. Trong thực tế, cũng với tiến trình cải cách kinh tế và hội nhập quốc tế, hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, việc thực thi quyền tiếp cận thông tin của người dân Việt Nam ngày càng được các cơ quan nhà nước và xã hội quan tâm hơn, bảo đảm tốt hơn.

Trong lĩnh vực kinh tế - tài chính, ngân sách nhà nước một phần đã được công bố và có thể tiếp cận được bởi công chúng. Người dân có nhiều thông tin hơn về thu chi ngân sách, nhất là tại các cấp địa phương. Nhiều báo cáo kiểm toán về việc sử dụng ngân sách, tài sản nhà nước đã được công khai. Nhiều thủ tục hành chính đã được công khai bằng nhiều hình thức hơn và dễ tiếp cận hơn. Trong lĩnh vực pháp luật, thông tin về các văn bản quy phạm pháp luật đến với người dân thuận tiện hơn nhờ hệ thống Công báo và các trang tin điện tử của cơ quan nhà nước. Các kỳ họp Quốc hội cũng thường xuyên truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn, thảo luận. Nhiều trang tin điện tử (như trang Duthaoonline.quochoi.vn, trang tin của Bộ Tư pháp và các Bộ khác….) là những kênh thuận tiện để người dân có thể cập nhật và góp ý xây dựng pháp luật. Tuy vậy, bên cạnh những kết quả nêu trên, quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam còn gặp nhiều thách thức, khó khăn (xem Câu tiếp theo).


12.  Việc thực thi quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam còn gặp những khó khăn chủ yếu gì?


Việc tiếp cận thông tin của người dân tại Việt Nam còn gặp những khó khăn, thách thức chủ yếu sau đây:

-            Thứ nhất, sự thiếu hụt của các quy định pháp luật xác định rõ phạm vi thông tin mà người dân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp. Cạnh đó, phạm vi được coi thuộc bí mật nhà nước lại tương đối rộng, đôi chỗ lại thiếu rõ ràng.

-            Thứ hai, sự thiếu hụt về bộ máy, cơ quan chuyên biệt tập hợp, tổ chức, sắp xếp, lưu trữ và cung cấp thông tin, trong khi kiến thức, kỹ năng chuyên môn của nhiều cán bộ còn những hạn chế. Ý thức của nhiều cán bộ về quyền được thông tin của người dân còn hạn chế, trong khi thiếu quy định về chế tài đối với người có nghĩa vụ nhưng từ chối cung cấp thông tin, cơ chế giải quyết khiếu nại chưa hiệu quả. Văn hóa công khai, minh bạch chưa hình thành.

-            Thứ ba, cơ sở vật chất, kỹ thuật (lưu trữ, cung cấp thông tin) chưa bảo đảm để có thể đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi.

-            Thứ tư, nhận thức của người dân về các quyền của mình, trong đó có quyền tiếp cận thông tin và sự hiểu biết về phạm vi thông tin có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước cung cấp còn hạn chế.



13.  Để bảo đảm tốt hơn quyền được tiếp cận thông tin ở Việt Nam, nhà nước cần thực hiện các biện pháp gì?


Để bảo đảm tốt hơn quyền được tiếp cận với các thông tin ở Việt Nam, trong thời gian tới, các biện pháp sau cần được các cơ quan nhà nước quan tâm hơn:

 

-            Thứ nhất, cần tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa quyền được tiếp cận thông tin về các lĩnh vực của đời sống xã hội vào trong các các quy định của pháp luật. Quốc hội cần sớm ban hành Luật tiếp cận thông tin (hoặc Luật Tự do thông tin). Cạnh đó, cần xác định rõ và thu hẹp phạm vi các thông tin được coi là bí mật nhà nước. Chỉ khi có một hành lang pháp lý đủ mạnh, đồng bộ và khả thi thì người dân mới có thể dễ dàng tiếp cận được các thông tin.

-            Thứ hai, cần tiếp tục tăng cường việc đầu tư nhân lực, cơ sở vật chất và tài chính cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tập hợp, lưu trữ và cung cấp thông tin. Đặc biệt các cơ quan nhà nước cấp địa phương cần được tăng cường năng lực để có thể hỗ trợ người dân thực thi quyền tiếp cận thông tin.

-            Thứ ba, cần hướng dẫn cho công chúng về kiến thức, kỹ năng và thủ tục tiếp cận thông tin và sử dụng quyền khiếu kiện khi việc tiếp cận thông tin của mình bị cản trở, xâm phạm hoặc không được bảo đảm đầy đủ.

-            Thứ tư, có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan truyền thông đại chúng, báo chí và các tổ chức xã hội dân sự tiếp cận thông tin từ các cơ quan công quyền, cũng như khi triển khai các hoạt động nhằm cung cấp thông tin cho cộng đồng.

 

 

 

 

 

 


Các tin khác: